Sáng nay 22/10, Chính phủ trình Quốc hội Dự án Luật quy hoạch đô thị. Tiếp đó, Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Uỷ ban kinh tế của Quốc hội Hà Văn Hiền đã trình bày Báo cáo thẩm tra dự án Luật này.
Đây là một trong những dự án Luật quan trọng quy định về hoạt động quy hoạch và tổ chức thực hiện quy hoạch đô thị, bao gồm việc lập, thẩm định, phê duyệt, điều chỉnh quy hoạch và quản lý phát triển đô thị theo quy hoạch đối với đô thị hiện có, đô thị mới; tính pháp lý của quy hoạch đô thị; yêu cầu chung đối với quy hoạch đô thị; kinh phí cho việc lập quy hoạch...
Sự cần thiết ban hành luật quy hoạch đô thị
Theo Bộ Xây dựng, trong thời gian qua, với chính sách đổi mới, hội nhập, cùng với sự phát triển nhanh về các mặt kinh tế – xã hội, hệ thống các đô thị ở nước ta đã phát triển nhanh chóng cả về số lượng, chất lượng và quy mô. Tính đến nay cả nước ta đã có trên 743 đô thị các loại (bao gồm từ đô thị loại 5 đến đô thị loại đặc biệt) trong đó có 2 đô thị loại đặc biệt (Thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh), 3 đô thị loại I, 14 đô thị loại II, 36 đô thị loại III, 41 đô thị loại IV, 647 đô thị loại V. Tỷ lệ đô thị hoá đạt gần 30%.
Thủ đô Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, là trái tim của cả nước, các đô thị lớn như thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ... là những trung tâm kinh tế, văn hoá, khoa học, công nghệ, đang đóng vai trò đầu tàu cho sự phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng và cả nước. Ngoài ra, cả nước hiện đang có trên 160 khu công nghiệp tập trung, 10 đô thị mới, 28 khu kinh tế cửa khẩu và khu kinh tế đặc thù, góp phần mở rộng mạng lưới đô thị quốc gia, tạo tiền đề cho sự phát triển đô thị tại các vùng ven biển và biên giới. Nhiều khu đô thị mới đã và đang được hình thành với hệ thống cơ sở hạ tầng đồng bộ, hiện đại, góp phần giải quyết nhiều vấn đề bức xúc của các đô thị hiện nay, nhất là vấn đề nhà ở và các dịch vụ đô thị.
Bộ mặt đô thị Việt Nam nói chung đã có nhiều khởi sắc theo hướng văn minh, hiện đại. Những thành tựu nêu trên có sự đóng góp quan trọng của các cơ quan quản lý nhà nước từ trung ương đến các địa phương và sự tham gia tích cực của các thành phần kinh tế trong xã hội. Đặc biệt là 5 năm gần đây, kể từ khi Luật Xây dựng được ban hành, công tác quản lý quy hoạch xây dựng đã có nhiều chuyển biến tích cực.
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, thực tế phát triển đô thị ở nước ta vẫn còn một số vấn đề tồn tại làm ảnh hưởng xấu đến sự phát triển các đô thị nói riêng và kinh tế - xã hội nói chung. Việc quản lý, sử dụng đất đai trong đô thị còn nhiều lãng phí. Tình trạng ô nhiễm môi trường đô thị chậm được cải thiện. Các vấn đề về nhà ở, giao thông đô thị đang gây nhiều bức xúc. Kiến trúc đô thị còn chắp vá, thiếu bản sắc. Công tác quy hoạch và quản lý phát triển đô thị theo quy hoạch còn nhiều bất cập.
Đô thị sẽ bớt những cảnh chen chúc như thế này!
Việc lập quy hoạch còn chậm, chưa đáp ứng đòi hỏi của thực tế xã hội và yêu cầu quản lý. Nhiều địa phương chưa quan tâm đúng mức, chưa tập trung các nguồn lực cần thiết cho công tác lập quy hoạch dẫn đến tình trạng quy hoạch chưa đi trước, thiếu cơ sở cho quản lý phát triển đô thị.
Việc tổ chức lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch còn nhiều bất cập, chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cấp, các ngành dẫn đến tình trạng không thống nhất giữa quy hoạch đô thị với các quy hoạch chuyên ngành khác, chưa bảo đảm sự kết nối, nhất là sự liên thông, đồng bộ về hạ tầng trong đô thị và giữa đô thị với khu vực lân cận. Tính chuyên nghiệp của đội ngũ lập quy hoạch chưa cao. Trong quá trình lập quy hoạch chưa thu hút được sự tham gia rộng rãi của cộng đồng, đặc biệt là của các nhà chuyên môn. Những vấn đề nêu trên dẫn đến chất lượng quy hoạch còn thấp, thiếu tính khả thi không phù hợp với xu thế phát triển của xã hội, phải điều chỉnh nhiều và chưa thu hút được các tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư phát triển đô thị theo quy hoạch.
Công tác quản lý phát triển đô thị theo quy hoạch trên thực tế còn nhiều yếu kém, hiệu quả chưa cao. Việc công bố, công khai quy hoạch được duyệt còn chậm và mang tính hình thức. Việc triển khai đưa các chỉ giới, mốc giới ra ngoài thực địa thực hiện chưa tốt dẫn đến tình trạng vi phạm chỉ giới quy hoạch, lấn chiếm đất công còn phổ biến ở nhiều nơi. Việc cung cấp thông tin quy hoạch, giới thiệu địa điểm, cấp chứng chỉ quy hoạch, cấp giấy phép xây dựng còn phức tạp về thủ tục, gây phiền hà cho các nhà đầu tư, hệ quả là công trình xây dựng không phép, sai phép còn chiếm tỷ lệ lớn, chính quyền địa phương không kiểm soát được việc tuân thủ quy hoạch trong hoạt động xây dựng tại đô thị.
Việc quản lý kiến trúc đô thị còn lúng túng làm cho diện mạo đô thị không có định hướng, chắp vá, lộn xộn và thiếu bản sắc. Hệ thống hạ tầng kỹ thuật và các dịch vụ đô thị thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng đòi hỏi thực tế của các đô thị. Nhiều chỉ tiêu quan trọng về hạ tầng đô thị chưa đạt quy chuẩn và chưa theo kịp các nước trong khu vực. Việc đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng kỹ thuật đô thị thiếu kế hoạch, thiếu sự phối hợp giữa các ngành, dẫn đến sự lãng phí lớn, gây nhiều bức xúc trong đời sống đô thị. Nguồn nhân lực phục vụ cho công tác lập quy hoạch cũng như triển khai thực hiện quy hoạch còn thiếu về số lượng và chất lượng chưa cao.
Pháp luật hiện hành của nước ta đã có nhiều quy định về quy hoạch và quản lý phát triển đô thị. Tuy nhiên, các quy định này còn chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, hiệu lực pháp lý thấp, nhiều quy định lạc hậu so với thực tế, chưa đáp ứng được yêu cầu quản lý phát triển đô thị và hội nhập quốc tế. Đây là nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự bất cập trong công tác quy hoạch và quản lý phát triển đô thị ở nước ta hiện nay.
Luật xây dựng hiện hành đã có 1 Chương quy định về quy hoạch xây dựng, tuy nhiên một số quy định của Luật còn mang tính nguyên tắc, thiếu các quy định cụ thể về quản lý phát triển đô thị theo quy hoạch cũng như các quy định về quy hoạch hệ thống hạ tầng kỹ thuật và dịch vụ đô thị. Quy trình, thủ tục về lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch còn phức tạp, tốn nhiều thời gian. Các quy định về lấy ý kiến cộng đồng khi lập quy hoạch cũng như việc công khai, cung cấp thông tin quy hoạch chưa đầy đủ và chưa phù hợp với điều kiện thực tế. Sự phân công, phân cấp trong quản lý đô thị còn chưa thật phù hợp với điều kiện thực tế ở các địa phương.
Trách nhiệm của chính quyền đô thị trong quản lý các vấn đề đặc thù của đô thị nhất là quản lý kiến trúc, cảnh quan đô thị chưa được thiết lập đầy đủ, rõ ràng dẫn đến lúng túng, trùng lắp và kém hiệu quả trong thực hiện. Một số vấn đề quan trọng khác như quy hoạch và quản lý không gian ngầm, kinh phí, nhân lực cho công tác lập và triển khai quy hoạch cũng như kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy hoạch... còn thiếu quy định cụ thể, chưa tạo ra được một hệ thống cơ sở pháp lý đầy đủ, đồng bộ cho công tác quy hoạch và quản lý phát triển đô thị.
Tình hình thực tế phát triển đô thị, thực trạng công tác quy hoạch và quản lý phát triển đô thị ở nước ta như phân tích trên đây đang đòi hỏi sớm ban hành Luật quy hoạch đô thị. Đây cũng là bước pháp điển hoá quan trọng, nhằm mục đích tạo lập khuôn khổ pháp lý đồng bộ, phù hợp cho công tác quy hoạch và quản lý phát triển đô thị ở nước ta hiện nay. Luật quy hoạch đô thị được ban hành sẽ là công cụ hữu hiệu để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong xây dựng và phát triển đô thị; bảo đảm phát triển hệ thống các đô thị và từng đô thị bền vững, có bản sắc, văn minh, hiện đại; đồng bộ với phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường.
Qua nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trong khu vực và trên thế giới (như Anh, Pháp, Nga, Ai-len, Phần Lan, Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Trung Quốc...), cho thấy các nước đều coi quy hoạch đô thị là công cụ quan trọng để quản lý và phát triển đô thị. Nhiều nước có đạo luật riêng về quy hoạch đô thị. Trong số đó, Luật quy hoạch đô thị của Trung Quốc được ban hành từ năm 1989 và được sửa đổi, bổ sung năm 2008 có nhiều quy định phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam hiện nay.
Hầu hết luật các nước đều xác định nguyên tắc quản lý quy hoạch đô thị phải đi từ tổng quát đến cụ thể, thông qua quy trình từ quy hoạch chung, quy hoạch phân khu đến quy hoạch chi tiết. Trong quy hoạch của từng đô thị, phải định rõ các khu chức năng, trong đó Nhà nước đặc biệt quan tâm đến việc quản lý và thực hiện quy hoạch các khu chính trị - hành chính; đối với các khu chức năng khác, Nhà nước định hướng, tạo điều kiện để các tổ chức, doanh nghiệp được tham gia lập quy hoạch và đầu tư phát triển các dự án theo quy hoạch. Quy hoạch phải bảo đảm cho việc đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật, dịch vụ đô thị đồng bộ và phải đi trước, tạo tiền đề cho việc xây dựng và thực hiện các dự án.
Luật pháp các nước đề cao tính công cộng, là đặc điểm quan trọng của đô thị, đưa ra các nguyên tắc quản lý và sử dụng không gian đô thị, kể cả không gian ngầm; thông qua kiến trúc sư trưởng nhằm quản lý hiệu quả cảnh quan, kiến trúc đô thị, bảo đảm bản sắc đô thị phù hợp với truyền thống văn hoá của dân tộc. Hầu hết các nước đều quản lý thực hiện quy hoạch thông qua việc cấp giấy phép quy hoạch. Bên cạnh đó, luật pháp các nước đều đưa ra các nguyên tắc để cộng đồng tham gia có hiệu quả vào việc xây dựng và thực hiện quy hoạch.
Quan điểm chỉ đạo soạn thảo luật quy hoạch đô thị
Việc chuẩn bị dự án Luật quy hoạch đô thị đã quán triệt các quan điểm chỉ đạo sau đây:
Một là, Luật quy hoạch đô thị phải thể chế hoá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, luật pháp của Nhà nước về quản lý và phát triển đô thị. Quán triệt Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng: “Phát triển mạng lưới đô thị phân bố hợp lý trên các vùng. Hiện đại hoá dần các thành phố lớn, thúc đẩy quá trình đô thị hoá nông thôn. Không tập trung quá nhiều cơ sở công nghiệp và dân cư vào các đô thị lớn... Tăng cường công tác quy hoạch và quản lý đô thị, nâng cao thẩm mỹ kiến trúc... Xây dựng đồng bộ và từng bước hiện đại hoá hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, điện lực, thông tin, thuỷ lợi, cấp thoát nước...”.
Hai là, Luật quy hoạch đô thị phải bảo đảm điều chỉnh các vấn đề liên quan đến những hoạt động lập, thẩm định và phê duyệt quy hoạch đô thị; tổ chức thực hiện quy hoạch và quản lý phát triển đô thị; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân liên quan tới các hoạt động quy hoạch đô thị.
Ba là, Luật quy hoạch đô thị phải kế thừa và phát huy những ưu điểm, khắc phục những tồn tại và là bước pháp điển hoá hệ thống pháp luật về quy hoạch xây dựng phát triển đô thị hiện hành; đồng thời bổ sung các quy định để điều chỉnh kịp thời các mối quan hệ mới phát sinh, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước trong hiện tại và xu thế phát triển trong tương lai.
Bốn là, Luật quy hoạch đô thị phải bảo đảm nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, quy định rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về quy hoạch đô thị, của tổ chức và cá nhân tham gia các hoạt động quy hoạch đô thị; phân định quản lý nhà nước và quản lý của nhà đầu tư; góp phần thúc đẩy cải cách hành chính trong quản lý quy hoạch đô thị phù hợp với tiến trình cải cách hành chính của Nhà nước và hội nhập kinh tế quốc tế.
Bố cục và nội dung cơ bản của Dự thảo luật
Dự thảo Luật quy hoạch đô thị bao gồm 7 chương, 81 điều, cụ thể như sau:
Chương I - Những quy định chung quy định về các vấn đề chung nhất, có tính nguyên tắc của vấn đề quy hoạch đô thị.
Chương II - Lập quy hoạch đô thị. Nội dung chủ yếu của Chương này quy định về việc tổ chức lập quy hoạch và nội dung của từng loại quy hoạch.
Chương III - Tổ chức thẩm định, phê duyệt quy hoạch đô thị. Chương này quy định về thẩm định, phê duyệt nhiệm vụ quy hoạch và các đồ án quy hoạch đô thị.
Chương IV - Điều chỉnh quy hoạch đô thị. Chương này quy định về các điều kiện, nguyên tắc, hình thức, trình tự và thủ tục điều chỉnh quy hoạch đô thị
Chương V - Tổ chức thực hiện và quản lý phát triển đô thị theo quy hoạch
Chương VI – Thanh tra và xử lý vi phạm
Chương VII - Điều khoản thi hành
Qua khảo sát thực tế cho thấy, tỷ lệ đất dành cho giao thông so với đất xây dựng đô thị ở nước ta là rất thấp (7,06% ở Hà Nội, 4,5% ở thành phố Hồ Chí Minh, trong đó quy chuẩn hiện hành là 24-26% và thực tế một số nước trong khu vực là 22-24%), đặc biệt, tỷ lệ đất dành cho giao thông tĩnh còn quá thấp: dưới 0,5% ở Hà Nội, 0,1% ở thành phố HCM, trong khi đó theo quy chuẩn, tỷ lệ này là 3% và tỷ lệ này ở các nước trong khu vực là 3-3,5%; nhiều chỉ tiêu về môi trường không đạt quy chuẩn, ví dụ như tỷ lệ đất cây xanh đô thị chỉ đạt 5,54m2/người ở Hà Nội, 3-5m2/người ở thành phố Hồ Chí Minh trong khi quy chuẩn là trên 15m2/người, của các nước trong khu vực là 15-20m2/người;
>Dự án Luật Quy hoạch đô thị: Cóp nhặt, chưa đủ tầm
DiaOcOnline.vn - Theo Báo Xây Dựng
Hỗ trợ dịch vụ
Liên hệ phòng kinh doanhKẾT NỐI VỚI CHÚNG TÔI TẠI: