Dù kinh tế phát triển nhanh hay chậm, vị trí của người giàu và người nghèo vẫn không thể cân bằng.
Hãy coi suy nghĩ này như một sự thử nghiệm. Hãy tưởng tượng, vào một buổi sáng thứ hai nào đấy, 100 nghìn thanh thiếu niên lông bông, không học hành bị bỏ bẵng ở góc phố State và Madison ở Chicago. Đây sẽ là một thảm hoạ đối với xã hội. Tội phạm gia tăng và khối dịch vụ của Chính phủ sẽ phải gồng mình để giải quyết vấn đề. Các doanh nghiệp sẽ không muốn xúc tiến các hoạt động trong khu thương mại Chicago. Các chính trị gia sẽ nài xin sự giúp đỡ từ chính quyền bang hoặc liên bang: Rót ngân sách để chúng tôi hỗ trợ những thanh thiếu niên này hoặc giúp chúng tôi loại bỏ họ. Khi quyết định đàn áp thẳng tay người vô gia cư, các chủ doanh nghiệp ở Sacramento, California đã thực hiện kế hoạch đưa họ lên những chuyến xe buýt một chiều ra khỏi thành phố.
Bây giờ hãy tưởng tượng cũng ở góc phố trên nhưng những thanh niên lêu lổng kia được thay bằng 100 nghìn sinh viên tốt nghiệp từ các trường đại học hàng đầu nước Mỹ. Những chiếc xe buýt đến góc phố State và Madison và chở trên đó những luật sư, bác sĩ, nghệ sĩ, nhà di truyền học, kỹ sư phần mềm và nhiều nhân tài có các kỹ năng chuyên biệt khác. Trong số họ, sẽ có nhiều người tìm được việc ngay lập tức. (Hãy nhớ rằng, vốn con người không chỉ là kiến thức chuyên môn, mà còn bao gồm tính kiên trì, trung thực và sáng tạo - những đức tính tốt góp phần đáng kể giúp họ kiếm được việc làm). Một số có thể lập công ty riêng (năng khiếu kinh doanh chắc chắn cũng là một phần quan trọng trong vốn con người). Một số sẽ chuyển đến nơi khác (những lao động có tay nghề cao luôn năng động hơn những người có tay nghề thấp). Để tận dụng nguồn nhân lực dồi dào và quý giá, các doanh nghiệp cũng chuyển tới Chicago hoặc mở văn phòng và nhà máy ở đây. Trong trường hợp này, giống như làn sóng nhập cư đã giúp nước Mỹ phát triển, sự xuất hiện với mật độ dày đặc của những chuyến xe buýt là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế của Chicago.
Nếu bạn cho rằng ví dụ này có vẻ hơi giả tạo và gượng gạo, chúng ta hãy cùng xem ví dụ về Naval Air Warfare Center (NAWC) (Trung tâm Không chiến của Hải quân Mỹ) ở Indianapolis - một cơ sở sản xuất thiết bị điện tử hiện đại cho hải quân cho đến cuối những năm 1990. NAWC buộc phải đóng cửa trong đợt cắt giảm quy mô quân đội. Tất cả chúng ta đã quen với những câu chuyện đóng cửa nhà máy kiểu này. Hàng trăm hoặc hàng nghìn lao động mất việc làm, các công ty quanh vùng rơi vào tình trạng khủng hoảng vì sức mua giảm mạnh.
Một bài báo sẽ viết: “Khi nhà máy XYZ bị đóng cửa năm…, cả thành phố bắt đầu chết.” Nhưng NAWC là một câu chuyện hoàn toàn khác. Một trong những tài sản có giá trị nhất của trung tâm này là lực lượng lao động, khoảng 40% trong số đó là các nhà khoa học hay kỹ sư. Các nhà lãnh đạo thông minh của địa phương do Thị trưởng Stephen Goldsmith đứng đầu quyết định chào bán nhà máy này. Bảy công ty đã nộp hồ sơ thầu và Hughes Electronics là công ty thắng thầu.
Một ngày thứ Sáu của tháng 1/1997, các nhân viên NAWC về nhà với tư cách là nhân viên chính phủ, nhưng ngày thứ Hai tiếp theo, 98% trong số họ làm việc với tư cách là nhân viên của Hughes (Cái tên NAWC cũng được đổi thành HAWC). Các giám đốc của Hughes cho biết giá trị của vụ mua bán này nằm ở con người chứ không phải gạch đá và vữa hồ. Hughes đã mua được một lượng vốn con người khổng lồ mà nó rất khó tìm được ở bất kỳ nơi nào khác. Điều đó đối lập hoàn toàn với việc đóng cửa nhà máy trong bài hát của Bruce Springsteen (Bài hát nói về một nhà máy mà những người lao động có trình độ hạn chế nhận ra rằng các kỹ năng hạn hẹp của họ không có giá trị khi xưởng/hầm mỏ/nhà máy bị đóng cửa). Sự khác biệt chính là ở vốn con người.
Đến đây, chúng ta đã có đủ bằng chứng để từ bỏ một trong những quan niệm nguy hại nhất trong chính sách công: Đó là toàn bộ lý luận sai lầm về lao động. Sẽ là sai lầm khi tin rằng có một số lượng việc làm cố định được tạo ra trong nền kinh tế và do đó sẽ có một công việc mới được tạo ra để thay thế cho một công việc khác bị mất đi. Những con số dưới đây chứng minh cho quan điểm này.
Nền kinh tế Mỹ đã tạo ra hàng chục triệu việc làm mới trong những năm 1990, những việc làm mới này chủ yếu thuộc lĩnh vực Internet. Tuy nhiên, nếu so sánh với các con số trước đó, tỷ lệ lao động có việc làm vẫn chưa cao. Tương tự, trong thời gian này, lịch sử nước Mỹ cũng tiếp nhận làn sóng khổng lồ những người nhập cư đến sinh sống và làm việc nhưng tỷ lệ lao động có việc làm trong dài hạn vẫn không tăng. Có sự thay thế nào trong ngắn hạn không? Có. Một vài công nhân mất việc làm hoặc bị giảm lương khi phải cạnh tranh với những người mới tham gia vào lực lượng lao động. Nhưng số việc mới được tạo ra nhiều hơn số việc làm bị mất đi. Hãy nhớ rằng, các lao động mới phải tiêu dùng thu nhập của mình, dẫn đến sự xuất hiện của nhu cầu mới đối với những sản phẩm khác. Do vậy, chiếc bánh kinh tế ngày càng to hơn, chứ không bị chia nhỏ.
Có một mối liên hệ đáng chú ý giữa mức vốn con người của một quốc gia với sự phát triển của nền kinh tế, nhưng không có một mối liên hệ đáng chú ý giữa nguồn tài nguyên thiên nhiên và mức sống. Những nước như Nhật và Thụy Điển là những nước giàu có vào bậc nhất thế giới, nhưng nguồn tài nguyên thiên nhiên của cả hai nước này đều rất nghèo nàn. Những nước như Nigeria lại hoàn toàn ngược lại: Sự giàu có về dầu mỏ chỉ góp phần rất nhỏ vào việc nâng cao mức sống của người dân. Trong một số trường hợp như ở châu Phi, sự giàu có về khoáng sản còn là nguyên nhân dẫn đến những cuộc chiến tranh đẫm máu mà đáng lẽ ra đã chấm dứt hẳn nếu không có những nguồn tài nguyên đó.
Mỹ là một quốc gia giàu có bởi vì người Mỹ làm việc rất năng suất. Ngày nay, chúng ta giàu hơn so với bất cứ thời điểm nào trong lịch sử loài người, bởi vì chúng ta có khả năng sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ tốt hơn nhiều lần trước kia, gồm cả những dịch vụ như chăm sóc sức khoẻ và giải trí. Điểm mấu chốt là chúng ta làm việc ít hơn và sản xuất ra nhiều hơn. Năm 1870, để làm ra đủ lượng thực phẩm cần dùng cho một năm, một hộ gia đình điển hình cần 1.800 giờ lao động, nhưng giờ đây, họ chỉ mất khoảng 26 giờ.
Trong thế kỷ XX, năm làm việc trung bình giảm từ 3.100 giờ xuống còn khoảng 1.730 giờ, trong khi đó, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân trên đầu người thực tế đã tăng từ 4.800 đôla lên 31.500 đôla. Ngay cả những người nghèo cũng đang sống rất tốt so với chuẩn lịch sử. Ranh giới nghèo hiện nay đang dừng ở mức thu nhập thực tế của 10% người có thu nhập cao nhất cách đây một thế kỷ. Đúng như John Maynard Keynes từng lưu ý: “Về lâu dài, năng suất lao động sẽ quyết định mọi thứ”.
Nhiều nhà kinh tế học cho rằng, chúng ta không nên quan tâm đến khoảng cách giàu nghèo cho đến khi chất lượng cuộc sống của mọi người trở nên tốt hơn. Nói cách khác, chúng ta nên quan tâm đến phần bánh mà người nghèo nhận được là bao nhiêu, chứ không phải là phần bánh họ nhận được bằng bao nhiêu so với của Bill Gates.
Robert Frank, nhà kinh tế học của trường Đại học Cornell, đồng thời là tác giả của cuốn Luxury Fever, đã đưa ra một ví dụ rất thuyết phục khẳng định sự giàu có tương đối – kích thước chiếc bánh của tôi so với của người hàng xóm – là yếu tố quyết định quan trọng lợi ích của chúng ta. Những người tham gia cuộc khảo sát của ông có hai sự lựa chọn: (A) bạn kiếm được 110 nghìn đôla và những người khác kiếm được 200 nghìn đôla; hoặc (B) bạn kiếm được 100 nghìn đôla và những người khác kiếm được 85 nghìn đôla. Frank giải thích: “Những con số thu nhập chính là sức mua thực tế.
Thu nhập của bạn trong lựa chọn A sẽ đủ điều kiện mua một ngôi nhà lớn hơn 10% so với ngôi nhà bạn có thể mua trong lựa chọn B. Nếu chọn chọn B, bạn sẽ phải từ bỏ một số tiền nhỏ trong toàn bộ thu nhập để đổi lấy mức tăng lớn trong thu nhập tương đối.” Bạn sẽ giàu có hơn trong lựa chọn A và ít giàu hơn trong lựa chọn B nhưng lại giàu hơn những người khác. Lựa chọn nào sẽ khiến bạn vui vẻ hơn? Theo Frank, phần lớn người Mỹ đều chọn B. Nói cách khác, thu nhập tương đối có ý nghĩa rất quan trọng. Sự ghen tị có thể là một phần cho cách giải thích này. Frank đã chỉ ra rằng, trong những môi trường xã hội phức tạp, chúng ta luôn tìm kiếm các thước đo đánh giá hoạt động của mình và sự giàu có tương đối là một trong những thước đo đó.
Những gia đình sống ở các khu nhà ổ chuột tại phía nam của Chicago không nghèo bởi vì Bill Gates sống trong một ngôi nhà lớn. Họ nghèo bất chấp thực tế đó. Vì một loạt những lý do phức tạp, người nghèo ở Mỹ không được chia sẻ những khoản lợi mà DOS và Windows tạo ra. Bill Gates không lấy chiếc bánh của họ, ông ta không cản bước con đường thành công của họ hay được lợi từ sự thiếu may mắn của họ. Thay vào đó, tầm nhìn và tài năng của Gates đã tạo ra một khối lượng của cải khổng lồ. Có sự khác biệt rất lớn giữa một thế giới mà ở đó Bill Gates giàu lên bằng cách đánh cắp những thành quả của người khác với một thế giới mà ở đó ông giàu lên nhờ việc tự tăng nguồn cung cấp thực phẩm khổng lồ cho riêng mình. Thế giới sau là sự biểu hiện tốt hơn cho thấy một nền kinh tế hiện đại hoạt động như thế nào.
| Đô La Hay Lá Nho? - Lột Trần Cô Nàng Kinh Tế Học |
NXB Lao Động Xã Hội |
Giá bìa: 79.000 VNĐ |
Hỗ trợ dịch vụ
Liên hệ phòng kinh doanhKẾT NỐI VỚI CHÚNG TÔI TẠI: