Phân chia tài sản cho con

Cập nhật 26/11/2011 08:30

Câu hỏi: Gia đình tôi hiện có 8 người con và chỉ có 1 mình tôi là nam còn lại 7 người là nữ ( 7 người nữ này hiện đã có gia đình và sống riêng tư) mẹ tôi mất sớm vào năm 1986, hiện ba tôi tuổi đã cao ngoài 70 nên ông quyết định để căn nhà từ xưa hiện đang ở lại cho tôi ( căn nhà này có từ trước 1975 nên chưa có cấp giấy chủ quyền) nên khi tiến hành làm giấy chủ quyền và di chúc lại cho tôi thì gặp phải sự tranh chấp và đòi chia tài sản của 7 người con nữ còn lại...nên ba tôi chưa thể tiến hành làm giấy chủ quyền cho tôi được.

Trong khi đó chính quyền nơi làm giấy chủ quyền đòi hỏi phải có sự đồng ý và ký tên của 7 người nữ còn lại mới cấp giấy chủ quyền cho ba tôi cũng như muốn bán căn nhà trên. Khi đó căn nhà này là của ba tôi mua khi chúng tôi chưa ra đời mà sao ba tôi không có quyền quyết định hay là chính quyền sở tại giải thích sai?

Như vậy ba tôi muốn làm giấy chủ quyền hoặc di chúc cho tôi hoàn toàn căn nhà trên thì phải làm như thế nào? Khi mà ba tôi hoàn toàn chỉ muốn để căn nhà lại cho 1 mình tôi mà không gặp phải sự tranh chấp của 7 người nữ còn lại? Hoặc giả Ba tôi chỉ để di chúc lại cho tôi về sau này ba tôi có mất đi lúc đó mới công bố di chúc cho tôi thì tôi có quyền để hưởng trọn vẹn căn nhà trên không? Xin tòa soạn vui lòng giải thích và chỉ dẫn dùm. Xin nhận nơi đây lòng thành thật biết ơn…


Kính gửi: Quý bạn đọc

Café Luật – Chuyên mục hợp tác giữa Cổng thông tin và giao dịch DiaOcOnline.vn và Công ty Luật Giải Phóng xin gửi đến bạn lời chào trân trọng. Theo nội dung thư bạn gửi; Căn cứ vào những quy định của pháp luật hiện hành Cafe Luật xin phúc đáp đến bạn như sau:

Đất của ba bạn đã có từ trước năm 1975 và chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, theo quy định tại Điều 50 Luật đất đai 2003. Nếu ba của bạn có một trong những giấy tờ quy định tại điều này sẽ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và cũng không cần sự đồng ý của các con.

Điều 50. Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất

1. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau đây thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất:

a) Những giấy tờ về quyền được sử dụng đất đai trước ngày 15 tháng 10 năm 1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; b) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính;

c) Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất;

d) Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đã sử dụng trước ngày 15 tháng 10 năm 1993;

đ) Giấy tờ về thanh lý, hoá giá nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật;

e) Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất.

2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này mà trên giấy tờ đó ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

3. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có hộ khẩu thường trú tại địa phương và trực tiếp sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối tại vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn ở miền núi, hải đảo, nay được Uỷ ban nhân dân xã nơi có đất xác nhận là người đã sử dụng đất ổn định, không có tranh chấp thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

4. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 15 tháng 10 năm 1993, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và không phải nộp tiền sử dụng đất.

5. Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Toà án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật.

6. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành, nay được Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định của Chính phủ.

7. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; trường hợp chưa thực hiện nghĩa vụ tài chính thì phải thực hiện theo quy định của pháp luật.

Như vậy, việc ba của bạn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không cần phải có sự đồng ý của các con, chỉ cần ba của bạn có một trong những giấy tờ được quy định như trên.

Tuy nhiên, đối với việc lập di chúc ba của bạn chỉ được để lại phần tài sản thuộc sở hữu của mình, chứ không phải để lại toàn bộ căn nhà và đất. Vì căn nhà là tài sản chung của vợ chồng, mẹ của bạn đã mất mà không để lại di chúc nên phần tài sản của mẹ bạn sẽ được chia theo pháp luật khi có yêu cầu. Lúc này 8 người con và ba của bạn đều có quyền hưởng di sản thừa kế theo pháp luật khi có yêu cầu (mỗi người được một phần bằng nhau của nữa căn nhà còn lại).

Như vậy ba của bạn muốn cho toàn bộ căn nhà cho bạn, thì cần sự đồng ý của những đồng thừa kế còn lại. Nếu không, ba của bạn chỉ có thể để di chúc lại cho bạn một nữa căn nhà.

***

Chúng tôi hy vọng rằng, ý kiến tư vấn của chúng tôi sẽ giúp làm sáng tỏ các vấn đề mà bạn đang quan tâm. Trên từng vấn đề cụ thể, nếu bạn cần tham khảo thêm ý kiến chuyên môn của chúng tôi, xin hãy liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ email cafeluat@diaoconline.vn hoặc qua số điện thoại 19006665 và 08. 73 050 996

Trân trọng.

Chuyên mục Café Luật

DiaOcOnline.vn mong muốn trở thành cầu nối cho bạn đọc với các chuyên gia trong từng lĩnh vực địa ốc. Hiện nay, qua DiaOcOnline.vn, bạn có thể kết nối với các chuyên gia trong lĩnh vực kiến trúc, pháp lý nhà đất, phong thủy nhà đất.

Nếu có nhu cầu được tư vấn về kiến trúc, pháp lý, phong thủy trong lĩnh vực nhà đất, bạn hãy click ngay vào đây để tìm hiểu về nhà tư vấn và gửi câu hỏi. Chúng tôi sẽ liên hệ với chuyên gia và đưa ra câu trả lời cho bạn trong thời gian sớm nhất.


DiaOcOnline.vn