Vợ mất không để lại di chúc giờ muốn chuyển nhượng QSD đất phải làm sao?

Cập nhật 14/04/2015 13:50

Kính gửi Luật sư

Hiện nay gia đình người bạn tôi có 01 thửa đất đã được cấp GCN QSD đất mang tên cả hai vợ chồng nhưng đến nay người vợ đã mất (không để lại di chúc). Hai vợ chồng người bản tôi đã có 01 người con mới 14 tuổi. Nay bạn tôi muốn chuyển nhượng QSD thửa đất trên (con cũng đồng ý), nhưng vì con chưa đủ tuổi vị thành niên nên chưa thể làm được các thủ tục sang tên theo quy định. Vì vậy nhờ Luật sư tư vấn giúp các thủ tục để được chuyển nhượng thửa đất trên theo đúng quy định của pháp luật.

Xin chân thành cảm ơn.

Kính gửi Quý bạn đọc

Café Luật – Chuyên mục hợp tác giữa Cổng thông tin và giao dịch DiaOcOnline.vnCông ty luật TNHH Đức An xin gửi đến bạn lời chào trân trọng. Theo nội dung thư bạn gửi; Căn cứ vào những quy định của pháp luật hiện hành Café Luật xin phúc đáp đến bạn như sau:

Luật sư Phạm Thị Bích Hảo, Công ty luật TNHH Đức An, Thanh Xuân, Hà Nội trả lời:

Khối tài sản trên được xác định là tài sản chung của vợ chồng giữa bố và mẹ của người bạn. Khoản 1, 2 Điều 66 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định: “1. Khi một bên vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận cử người khác quản lý di sản.

2. Khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận về chế độ tài sản. Phần tài sản của vợ, chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết được chia theo quy định của pháp luật về thừa kế.”

Theo đó, chỉ có một nửa khối tài sản nêu trên được xác định là di sản thừa kế do người vợ để lại và được chia thừa kế. Phần tài sản còn lại thuộc quyền định đoạt của người chồng. người chồng hiện tại được xác định là người quản lý tài sản. Khi có yêu cầu về chia di sản thì tài sản chung của vợ chồng được chia đôi.

Đối với phần di sản do người vợ để lại, do người vợ không có di chúc nên việc phân chia tài sản được thực hiện theo quy định của pháp luật cho những người đồng thừa kế xác định theo hàng thừa kế gồm: người chồng, người con, các anh chị em ruột của người vợ, cha, mẹ của người vợ (nếu còn) (Theo điểm a Khoản 2 Điều 676 BLDS 2005). Trong trường hợp này, nghĩa vụ của người chồng là người quản lý di sản được thực hiện theo Điều 639 BLDS 2005:

“1. Người quản lý di sản quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 638 của Bộ luật này có các nghĩa vụ sau đây:

b) Bảo quản di sản; không được bán, trao đổi, tặng cho, cầm cố, thế chấp và định đoạt tài sản bằng các hình thức khác, nếu không được những người thừa kế đồng ý bằng văn bản;”

Như vây, nếu muốn chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên trong đó có phần đồng thừa kế của con và các đồng thừa kế khác, người chồng phải được sự đồng ý của họ. Tuy nhiên, Điều 77 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 cũng quy định:

“Điều 77. Định đoạt tài sản riêng của con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự

1. Trường hợp cha mẹ hoặc người giám hộ quản lý tài sản riêng của con dưới 15 tuổi thì có quyền định đoạt tài sản đó vì lợi ích của con, nếu con từ đủ 09 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.

2. Con từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi có quyền định đoạt tài sản riêng, trừ trường hợp tài sản là bất động sản, động sản có đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng hoặc dùng tài sản để kinh doanh thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của cha mẹ hoặc người giám hộ.

3. Trong trường hợp con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự thì việc định đoạt tài sản riêng của con do người giám hộ thực hiện.”

Như vậy, pháp luật không cấm cha mẹ được bán/chuyển nhượng tài sản của con vì lợi ích của con và phải xem xét nguyện vọng của con vì trong trường hợp này con đã 14 tuổi.

Về thủ tục thực hiện, người chồng liên hệ với Tổ chức hành nghề công chứng của địa phương để thực hiện. Tuy nhiên, trước khi tiến hành chuyển nhượng, người chồng phải thực hiện thủ tục phân chia di sản thừa kế theo quy định của Điều 57 Luật Công chứng 2014:

“1. Những người thừa kế theo pháp luật hoặc theo di chúc mà trong di chúc không xác định rõ phần di sản được hưởng của từng người thì có quyền yêu cầu công chứng văn bản thỏa thuận phân chia di sản.

Trong văn bản thỏa thuận phân chia di sản, người được hưởng di sản có thể tặng cho toàn bộ hoặc một phần di sản mà mình được hưởng cho người thừa kế khác.

2. Trường hợp di sản là quyền sử dụng đất hoặc tài sản pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu thì trong hồ sơ yêu cầu công chứng phải có giấy tờ chứng minh quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản của người để lại di sản đó.

Trường hợp thừa kế theo pháp luật, thì trong hồ sơ yêu cầu công chứng phải có giấy tờ chứng minh quan hệ giữa người để lại di sản và người được hưởng di sản theo quy định của pháp luật về thừa kế. Trường hợp thừa kế theo di chúc, trong hồ sơ yêu cầu công chứng phải có bản sao di chúc.”
 

***

Chúng tôi hy vọng rằng, ý kiến tư vấn của chúng tôi sẽ giúp làm sáng tỏ các vấn đề mà bạn đang quan tâm. Trên từng vấn đề cụ thể, nếu bạn cần tham khảo thêm ý kiến chuyên môn của chúng tôi, xin hãy liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ email cafeluat@diaoconline.vn.

* Bạn đọc vui lòng gửi nội dung được ghi bằng tiếng Việt có dấu.

Trân trọng.

Chuyên mục Café Luật
 

DiaOcOnline.vn mong muốn trở thành cầu nối cho bạn đọc với các chuyên gia trong từng lĩnh vực địa ốc. Hiện nay, qua DiaOcOnline.vn, bạn có thể kết nối với các chuyên gia trong lĩnh vực kiến trúc, pháp lý nhà đất, phong thủy nhà đất.

Nếu có nhu cầu được tư vấn về kiến trúc, pháp lý, phong thủy trong lĩnh vực nhà đất, bạn hãy click ngay vào đây để tìm hiểu về nhà tư vấn và gửi câu hỏi. Chúng tôi sẽ liên hệ với chuyên gia và đưa ra câu trả lời cho bạn trong thời gian sớm nhất.


DiaOcOnline.vn