Vốn tín dụng ngân hàng nếu như được đầu tư cho sản xuất kinh doanh, xuất khẩu… sẽ góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Song nếu được đầu tư quá nhiều cho thị trường bất động sản (BĐS) và các lĩnh vực phi sản xuất khác thì lại là một trong những thủ phạm tiềm ẩn gây nên lạm phát.
Biện pháp đầu tiên trong số 8 giải pháp “Kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vững” được Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố hôm 31/3/2008 đó là: “Thực hiện thắt chặt tiền tệ”.
Thực tế là vốn tín dụng ngân hàng đối với nền kinh tế tăng trưởng nhanh nếu như được đầu tư cho sản xuất kinh doanh, tạo ra số đông việc làm mới, nhất là thúc đẩy sản xuất công nghiệp, nông lâm ngư nghiệp, sản xuất hàng xuất khẩu phát triển,… thì rõ ràng là tạo ra tăng trưởng kinh tế bền vững và ít gây ra lạm phát. Song nếu như số vốn đó đầu tư quá nhiều cho thị trường BĐS và các lĩnh vực phi sản xuất khác thì lại là thủ phạm tiềm ẩn gây nên lạm phát.
Vốn tín dụng đầu tư BĐS: Cán cân lệch!
Năm 2007 và gần 2 tháng đầu năm 2008, thị trường BĐS lên cơn sốt, giá nhà đất tăng cao, một số nơi tăng gấp 2-3 lần. Một khối lượng không nhỏ vốn tín dụng ngân hàng được đầu tư vào bất động sản.
Trong tháng 1/2008, một số thông tin từ Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã được công bố cho thấy, tính đến hết năm 2007, hệ thống Ngân hàng thương mại và Tổ chức tín dụng trong cả nước có tổng dư nợ cho vay và đầu tư vốn đối với nền kinh tế tăng tới 37,8% so với cuối năm 2006 và tăng gấp khoảng 2 lần so với mức dự kiến từ đầu năm là 17-22%.
Song trong ý kiến trả lời chất vấn tại phiên họp Uỷ ban thường vụ Quốc hội ngày 28/3/2008 Bộ trưởng Tài chính Vũ Văn Ninh lại nói rằng tăng trưởng tín dụng lúc đầu dự báo là 43%, thì nay đã tăng lên hơn 53%. Vậy đâu là con số đúng?
Theo thông lệ, số liệu báo cáo về tăng trưởng tín dụng ban đầu được tổng hợp từ báo cáo của các chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố trong toàn quốc. Báo cáo này được lập từ ngày 15/11/2007, dựa trên số liệu thực tế hết tháng 10 và ước tính cho 2 tháng cuối năm. Nhưng trong 2 tháng 11 và 12/2007, tín dụng tăng trưởng rất lớn, nên số liệu Bộ trưởng Tài chính đưa ra là có cơ sở.
Nếu đúng vậy thì tốc độ tăng trưởng tín dụng năm 2007 lớn nhất trong gần 20 năm đổi mới hoạt động ngân hàng và gấp 2,2 lần tốc độ tăng trưởng tín dụng của năm 2006.
Xét về cơ cấu vốn tín dụng theo báo cáo ban đầu của NHNN thì cũng cho thấy đó là cơ cấu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và vẫn quan tâm đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn và hộ nông dân.
Trong cơ cấu dư nợ cho vay tính đến hết năm 2007 theo báo cáo ban đầu của NHNN được tổng hợp từ báo cáo của các địa phương, ước tính 87% là dư nợ cho vay lĩnh vực nông nghiệp, thuỷ hải sản, sản xuất công nghiệp, xây dựng cơ bản, thương mại và dịch vụ, trong đó riêng lĩnh vực nông nghiệp và thuỷ hải sản, chế biến nông sản chiếm tới 29%, còn lại 13% là dư nợ cho vay lĩnh vực khác.
Cũng tính đến hết năm 2007, dư nợ cho vay chứng khoán của toàn bộ các NHTM dừng ở tỷ lệ 1,37% trong tổng dư nợ cho vay. Đặc biệt là tỷ lệ nợ xấu đến hết năm 2007 giảm 0,65% so với năm 2006, nhưng số tuyệt đối thì không tăng.
Cho vay đầu tư BĐS: cao hơn nhiều con số báo cáo!
Qua số liệu nói trên có một số vấn đề cần được phân tích:
Thứ nhất, đó là số liệu báo cáo. Vậy thì số liệu trong thực tế vốn đầu tư cho BĐS, chứng khoán là bao nhiêu? Chắc chắn là sẽ cao hơn nhiều con số báo cáo.
Đây là số liệu ước tính cho 2 tháng cuối năm. Mà trong thực tế tháng 11 và tháng 12/2007 chính là thời điểm thị trường BĐS nóng nhất. Nên chắc chắn rằng trong 2 tháng cuối năm 2007 dư nợ cho vay vốn đầu tư BĐS rất lớn.
Tỷ trọng 87% nói trên bao nhiêu là đầu tư cho nông nghiệp, thuỷ hải sản,… và bao nhiêu là đầu tư cho xây dựng cơ bản. Đồng thời trong tỷ trọng 13% cho vay khác là những lĩnh vực gì, có phải là đầu tư bất động sản hay không?
Nhiều hợp đồng tín dụng của doanh nghiệp, của hộ gia đình được thể hiện là đầu tư cho sản xuất, kinh doanh, cho tiêu dùng,… nhưng thực chất là đầu tư cho BĐS. Nhưng khi các NHTM tổng hợp báo cáo phân loại dư nợ theo đối tượng đầu tư gửi chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố thì lại dựa trên hợp đồng tín dụng. Bởi vậy thực tế vốn đầu tư cho BĐS có khoảng cách nhất định so với báo cáo và so với hợp đồng tín dụng.
Nói cách khác, cho đến nay vẫn chưa có được con số chính xác về vốn cho vay đầu tư BĐS. Vậy luồng tiền này chu chuyển như thế nào gây nên lạm phát?
BĐS quay vòng: tác động đến lạm phát như thế nào?
Một là chủ dự án đầu tư khu đô thị, khu công nghiệp,… trả cho ngân sách địa phương về tiền sử dụng đất. Với nguồn thu đột xuất lớn như vậy có tỉnh từ trước đến nay thường xuyên bội chi, bỗng dưng trở nên kết dư ngân sách.
Vốn cho vay đầu tư BĐS: cao hơn
nhiều con số báo cáo.