Ngày 20/10/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ký
quyết đinh số 1519/QĐ- TTg lấy ngày 8/11 hằng năm
là Ngày Đô thị Việt Nam, nhằm động viên và thu hút
sự quan tâm của các tầng lớp nhân dân, chính quyền
các đô thị các nhà quy hoạch, kiến trúc, các nhà đầu
tư phát triển đô thị, các chuyên gia và các tố chức xã
hội-nghề nghiệp tích cực tham gia xây dựng và phát
triển đô thị. Trong quá trình phát triển của mỗi quốc
gia, đô thị luôn là động lực thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, phát triển xã hội. Đô thị hoá được xem là
vấn đề hết sức hiện nay đối với Việt Nam.
Đô thị hoá, qua các con số
Trong hơn 20 năm tiến hành
công cuộc đổi mới, quá trình đô
thị hoá diễn ra hết sức nhanh
chóng nhất là trong 10 năm trở
lại đây, đặc biệt ở các thành phố
lớn như Hà Nội, Đà Nẵng và Thành
phố Hồ Chí Minh.
Từ năm 1990 các đô thị
Việt Nam bắt đầu phát triển,
lúc đó cả nước mới có khoảng
500 đô thị (tỷ lệ đô thị hoá
vào khoảng 17-18%), đến năm
2000 con số này lên 649 và
năm 2003 là 656 đô thị. Tính
đến nay, cả nước có khoảng 700 đô thị, trong đó có 5
thành phố trực thuộc trung
ương, 44 thành phố trực thuộc
tỉnh, 45 thị xã và trên 500 thị
trấn. Bước đầu đã hình thành
các chuỗi đô thị trung tâm
quốc gia: Các đô thị trung tâm
quốc gia gồm Hà Nội, Thành
phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng,
Đà Nẵng, Huế. Các đô thị
trung tâm vùng gồm các thành
phố như: Cần Thơ, Biên Hoà,
Vũng Tàu, Buôn Ma Thuột,
Nha Trang, Nam Định, Thái
Nguyên, Việt Trì, Hạ Long, Hoà
Bình… Các đô thị trung tâm
tỉnh gồm các thành phố, thị xã giữ chức năng trung tâm
hành chính-chính trị, kinh tế,
văn hoá, du lịch-dịch vụ, đầu
mối giao thông; và các đô thị
trung tâm huyện; đô thị trung
tâm cụm các khu dân cư nông
thôn, các đô thị mới.
Hiện nay, tỷ lệ dân số đô
thị ở nước ta dưới 40%, theo
quy hoạch phát triển đến năm
2010 con số này sẽ 56-60%, đến năm 2020 là 80%.
Theo dự báo của Bộ Xây
dựng, tỷ lệ đô thị hoá của Việt
Nam vào năm 2020 sẽ đạt
khoảng 40%, tương đương với
số dân cư sinh sống tại đô thị
chiếm trên 45 triệu dân. Mục
tiêu đề ra cho diện tích bình
quân đầu người là 100m2/người. Nếu đạt tỷ lệ 100m2/người, Việt Nam cần có khoảng 450.000ha đất đô thị, nhưng
hiện nay, diện tích đất đô thị
chỉ có 105.000ha, bằng 1/4
so với yêu cầu. Với tốc độ phát
triển và dân số đô thị như vậy,
Việt Nam sẽ phải đối mặt với
ngày càng nhiều vấn đề phức
tạp phát sinh từ quá trình đô
thị hoá.
Đó là: Vấn đề di dân từ
nông thôn ra thành thị, làm cho
mật độ dân số ở thành thị tăng
cao; vấn đề giải quyết công ăn
việc làm, thất nghiệp tại chỗ,
nhà ở và tệ nạn xã hội làm cho
trật tự xã hội ven đô ngày càng
thêm phức tạp; vấn đề nhà ở
và quản lý trật tự an toàn xã hội
ở đô thị; vấn đề ô nhiễm môi
trường, ô nhiễm nguồn nước...
Đô thị hóa hướng tới mục tiêu bền vững
Đô thị hóa là một quá trình tất yếu
của bất kỳ quốc gia nào, trong đó có Việt
Nam. Tuy nhiên, đô thị hóa tự phát,
thiếu quy hoạch khoa học sẽ làm nảy
sinh và để lại nhiều hậu quả tiêu cực và
lâu dài, cản trở sự phát triển của đất nước.
Chính vì vậy, chiến lược đô thị hóa của
Việt Nam phải hướng tới mục tiêu bền
vững giữ tự nhiên, con người và xã hội.
Muốn vậy cần: Tăng cường công tác giáo
dục nhằm nâng cao nhận thức của người
dân. Song song với việc nâng cao dân trí
là tiến hành quy hoạch phân bố đồng
đều các khu công nghiệp, khu đô thị tại
các thành phố trên cả nước. Tăng cường
giáo dục nếp sống văn minh, gia đình
văn hoá mới đối với cư dân đô thị. Hạn
chế và quản lý tốt hơn đối với dân nhập cư, góp phần lập lại trật tự xã hội đảm bảo cho việc xây dựng xã hội đô thị ổn định, bền vững. Có chiến lược, lộ trình quy hoạch đô thị đồng bộ. Hoàn thiện và và phát triển mạng lưới cơ sở hạ tầng đô thị, giao thông đường bộ thuận tiện, không
ách tắc và hạn chế gây ô nhiễm môi trường.
Tăng cường nâng cao
nhận thức cho cộng đồng về tầm quan
trọng của môi trường đối với sức khoẻ và
chất lượng cuộc sống. Tích cực thực hiện
các biện pháp tuyên truyền, khuyến
khích cộng đồng sử dụng các nhiên liệu
sạch trong sinh hoạt thay cho các loại
nhiên liệu gây ô nhiễm không khí và
nguồn nước sinh hoạt. Ưu tiên phát triển
giao thông công cộng, đặc biệt là các
phương tiện giao thông công cộng hiện
đại không gây ô nhiễm. Cần xem việc
phát triển phương tiện vận chuyển công
cộng là giải pháp trọng tâm để giảm nguy
cơ tắc nghẽn giao thông và ô nhiễm môi
trường đô thị. Có thể nói, đô thị hoá tự
phát, thiếu quy hoạch khoa học sẽ làm
nảy sinh và để lại nhiều hậu quả tiêu cực
và lâu dài, cản trở sự phát triển của đất nước.
Một số khái niệm về đô thị hoá:
Đô thị hóa là sự mở rộng của đô
thị, tính theo tỷ lệ phần trăm giữa số
dân đô thị hay điện tích đô thị trên
tổng số dân hay diện tích của một vùng
hay khu vực. Nó cũng có thể tính theo
tỷ lệ gia tăng của hai yếu tố đó theo
thời gian. Nếu tính theo cách đầu thì
nó còn được gọi là mức độ đô thị hoá,
còn theo cách thứ hai, nó có tên là tốc
độ đô thị hoá.
Các kiểu đô thị hoá
Đô thị hoá thay thế: Là khái niệm để
chỉ quá trình đô thị hoá diễn ra ngay
chính trong đô thị. Ở đây cũng có sự di
dân, nhưng là từ trung tâm ra ngoại
thành hoặc vùng ven đô. Quá trình này
cũng có thể là quá trình chỉnh trang,
nâng cấp đô thị, đáp ứng yêu cầu mới.
Hiện ở thành phố Hồ Chí Minh cũng đang
xảy ra cả hai quá trình trên. Nhiều hộ
gia đình từ trung tâm di cư đến vùng
ven và ngoại thành, nhiều công trình
nhà cửa, giao thông, kênh rạch, vườn
hoa, nhà văn hoá đang được xây dựng lại với quy mô lớn hơn.
Đô thị hoá cưỡng bức: Là khái niệm
dùng để chỉ sự di chuyển dân cư từ
nông thôn về thành thị. Đặc điểm đô
thị hoá cưỡng bức là không gian kiến
trúc không được mở rộng theo quy
hoạch mà mang tính tự phát cao. Các
nhu cầu của dân nhập cư không được
đáp ứng. Đô thị trở nên quá tải, nhiều
tiêu cực phát sinh.
Đô thị hoá ngược: Là khái niệm dùng
để chỉ sự di dân từ đô thị lớn sang đô
thị nhỏ, hoặc từ đô thị trở về nông
thôn.
Theo các học già Mỹ, hiện tượng này
còn gọi là “sự phục hưng nông thôn”.
Phát triển đến một lúc nào đó, bằng
các chính sách của mình, các chính phủ
sẽ điều chỉnh hướng vào sự phát triển
nông thôn. Quá trình này sẽ góp phần
san bằng khoảng cách và chất lượng
sống giữa thành thị và nông thôn.
DiaOcOnline.vn - Theo T/C Thị Trường Giá Cả