Vàng và đất ai cũng thích. Nhưng nếu được hỏi thích cái nào hơn thì e lệ lắm!. E lệ vì nếu nói thích cả hai, mang tiếng tham, mà chọn một thì tiếc đứt ruột!. Vàng và đất là sản phẩm tinh thần, niềm khát khao hai trong một của hầu hết con người thời nay.
Nhưng khổ nỗi, phàm cái gì hiếm, quí trên mặt đất này giá trị đều thất thường. Bởi hiếm, quí hay không đều do con người bày đặt ra cả.
Lộ trình lên ngôi của vàng
Con người bắt đầu sử dụng vàng từ thời kỳ đồ đồng cách đây sáu nghìn năm. Nơi khác không biết nhưng dân Sài Gòn chỉ thật sự ham vàng cách đây bốn chục năm. Bằng chứng là thời ấy hầm vàng của ngân khố quốc gia Việt Nam cộng hòa ở bến Chương Dương chỉ trữ vài chục tấn. Giới thượng lưu chơi và thể hiện đẳng cấp bằng vila, đồn điền, xe hơi, kim cương và đô la, vàng chỉ dùng làm đồ trang sức hoặc là hình thức tích tụ vốn liếng của dân hạ lưu tỉnh lẻ và dân hai lúa miệt vườn .
Thời nào vàng cũng là một thế lực trực tiếp hoặc gián tiếp làm thay đổi giá trị cuộc sống. Có lẽ vàng vẫn giữ địa vị thống trị phổ biến hơn kim cương. Vì vàng có thể dát mỏng (một ounce bao phủ được ba mươi mét vuông ), vàng có thể kéo dài (một ounce kéo dài được tám trăm mét), vàng được ứng dụng trong y học, công nghệ máy tính... Vàng phù phép, đánh bóng quyền lực và giàu sang. Ngày xưa vua chúa ngự trên ngai vàng để thỏa mãn niềm kiêu hãnh là thiên tử, con trời . Ngày nay, người ta xây dựng những khách sạn dát vàng khổng lồ ở Đu-Bai, Bắc Kinh... , cũng là một cách lăng xê theo công nghệ mới cho các đại gia và các ngôi sao.
Nhưng vàng vẫn hiếm và quý cũng vì vàng chia ra sở hữu theo đầu người còn rất ít . Tính bình quân trên thế giới mỗi đầu người chỉ có hai mươi bốn gam, tương đương 0,8 ounce vàng, mà muốn có một ounce người ta phải đào đãi hai trăm năm mươi tấn đất đá từ mỏ.
Trên thế giới nước sử dụng vàng làm đồ trang sức nhiều nhất là Ấn Độ. Ở Việt Nam, nơi sử dụng vàng làm đồ trang sức nhiều nhất là Sài Gòn. Ngoài những trang sức được chế tác theo phong cách truyền thống như nhẫn, nụ, khuyên, dây chuyền, toòng teng... mốt hiện đại còn phát triển thêm nhiều kiểu lắc, vòng, hoa tai... Trên cơ thể, vàng ngụ cư nhiều nhất ở tay và cổ. Ngày xưa nơi thương trường người Sài Gòn không ham lướt sóng vàng. Vàng được xem là thứ của cải tạm yên giấc trong két sắt, trong đất... là bong ke phòng thủ cuối cùng của thời vận, của tuổi già.
Sau chiến tranh, ở các khu gia binh ven đô Sài Gòn người ta đào được cả những ăng-gô, thùng đạn chứa đầy vàng miếng. Dễ hiểu thôi, lương thiếu úy chưa tính thâm niên của quân đội Việt Nam Cộng hòa lúc bấy giờ khoảng hai lăm ngàn một tháng, mà vàng bốn số chín chỉ có bốn ngàn đồng một lượng.
Từ khi Mỷ bãi bỏ định chế bản vị vàng,cùng với sự tăng trưởng kinh tế kiểu nhân bản vô tính của môt số quốc gia vàng cựa quậy trong những vỏ trứng tiền tệ mong manh dễ vỡ, chờ mọc cánh bay ra. Vàng có sóng ở Sài Gòn từ đầu thập kỳ 1980, nhưng chỉ lăn tăn chưa thể lướt bởi hệ thống bao cấp tầng tầng lớp lớp. Từ 1985,khi nền kinh tế Việt Nam với chính sách Giá - Lương -Tiền, Việt Nam đồng luôn ở trạng thái trượt tuyết, thì vàng chiếm vị trí ngôi vương trong mọi toan tính làm ăn, lỗ lãi của cư dân Sài Gòn.
Trước hào quang danh giá của vàng, đất Sài Gòn không chịu chấp nhận thất bại. Có bốn lý do làm cho đất Sài Gòn lúc bầy giờ còn lếp vế. Thứ nhất, theo Hiến pháp nước Cộng Hòa xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, đất là loại tài sản thuộc sở hữu toàn dân. Thứ hai, người Sài Gòn chưa kịp hoàn hồn sau cuộc cải tạo tư sản 1978. Thứ ba, làn sóng dân nhập cư Sài Gòn còn nhỏ, lẻ. Thứ tư, chỉ có người hộ khẩu Sài Gòn mới được giao dịch, chuyển nhượng đất hợp pháp.
Mà hộ khẩu Sài Gòn thời đó nếu ai đã từng chứng kiến mới thấy nó còn quý hơn cả vàng và đất. Một cái sổ hộ khẩu chỉ mấy trang giấy khổ mười lăm hai mươi nặng khoảng ba mươi gam luôn bìa nhưng giá gốc không dưới ba lượng vàng. Ba lượng vàng thời đó có thể mua ba nghìn mét vuông đất ven đô. Bởi vậy, giấc mơ hộ khẩu Sài Gòn, ngay cả với những người đã từng sống ở Sài Gòn cũng chỉ là những giấc mơ lêu lổng, hải hồ không nơi nương tựa trong những đêm hữu hạn đời thường!.
Dân Sài Gòn nói riêng và dân Nam Bộ nói chung, tích tụ đất như một thói quen bổn phận của cha ông để lại cho con cháu. Trước 1975, nội đô Sài Gòn còn hàng trăm héc ta đất dự trữ thuộc các quận Tân Bình, Bình Thạnh, Gò Vấp. Đất được coi là hàng hóa mua bán tự do và được cấp chứng chỉ pháp lý gọi là bằng khoán.
Đơn vị tính đất đai ở Sài Gòn được tính bằng m2, công và mẫu. Mỗi công là một nghìn mét vuông. Mỗi mẫu là mười công. Giới thượng lưu Sài Gòn ham chơi biệt thự, xe hơi, kim cương... ít người chơi đất mà có chơi thì chơi đất thẳng cánh cò bay ở miền Tây Nam Bộ hoặc đất bạt ngàn ở đồi núi Tây Nguyên để làm trang trại lớn. Một vài trăm mét vuông đất ở ven đô Sài Gòn trước 1975 bạn bè có thể cho nhau mượn để tá túc thậm chí tình thương mến thương có thể tặng, cho nhau là chuyện nhỏ.
Ngôi vương mới của đất
Sau cuộc chiến hơn hai mươi năm giữa người và người từ 1954 đến 1975 thì vàng và đất vẫn bình yên bên nhau thêm hơn một thập kỷ. Vàng và đất ở Sài Gòn chỉ thực sự lăn tăn đưa đẩy từ đầu thập kỷ 1990. Đến năm 1992 thì cả hai mới chính thức thượng đài, so găng từng hiệp một.
DiaOcOnline.vn - Theo VEF