Quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) vẫn còn rất nhỏ nếu so với thị trường trái phiếu chính phủ (TPCP) và thị trường TPDN của các nước trong khu vực Đông Nam Á.
Theo Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), TPDN Việt Nam chỉ đạt gần 1,45% GDP, so với 21,48% GDP của TPCP. Trong khi đó, TPDN Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Singapore lần lượt đạt 20,80%, 2,87%, 33,77%, và 46,34% GDP của mỗi nước.
Thêm vào đó, thị trường TPDN gần như chỉ dành cho các công ty đại chúng niêm yết. Bởi vì các doanh nghiệp không niêm yết thường là các doanh nghiệp nhỏ và thường phải đề nghị mức lãi suất cao hơn để thu hút nhà đầu tư.
Theo Công ty Chứng khoán VDSC, thị trường TPDN của Việt Nam thiếu hai yếu tố chính để phát triển và bắt kịp các nước trong khu vực. Thứ nhất, Việt Nam thiếu một tổ chức đánh giá xếp hạng tín nhiệm uy tín để giúp các nhà đầu tư có thêm thông tin đáng tin cậy. Thứ hai, Việt Nam vẫn còn quá ít các quỹ đầu tư, quỹ tương hỗ,...
Ví dụ như Singapore có khá nhiều tổ chức xếp hạng cho thị trường TPDN, ngay cả những tổ chức xếp hàng uy tín của thế giới cũng có trụ sở ở đây như Standard & Poor, Fitch Rating, Moody. Tuy Việt Nam cũng có một số công ty xếp hạng tín nhiệm, nhưng để xây dựng uy tín và hệ thống đánh giá tín nhiệm chuẩn quốc tế sẽ cần một thời gian dài nữa.
Trong khi đó, nhà đầu tư cá nhân rất khó để tham gia vào thị trường TPDN do hai yếu tố chính. Thứ nhất, rủi ro đối với nhà đầu tư cá nhân sẽ cao hơn nhà dầu tư tổ chức vì họ khó đa dạng hóa danh mục TPDN. Thứ hai, đầu tư TPDN cũng đòi hỏi thời gian và chuyên môn để phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp khi thông tin của các doanh nghiệp nhỏ và không niêm yết trên sàn là rất ít.
Bởi vậy, thị trường TPDN dường như chỉ là cuộc chơi của những nhà đầu tư tổ chức, khi những nhà đầu tư này thường sẽ có bộ phận đánh giá doanh nghiệp và họ cũng có khả năng đa dạng hóa danh mục đầu tư tốt hơn.