Bất cứ người Việt nào cũng có, và cần có, một vùng quê để thương để nhớ. Thật bất hạnh cho ai đó không có được một “vùng thương nhớ" ấy trong hoài niệm tuổi thơ. Mà là hoài niệm, thì cho dù nơi ấy có cơ cực tủi nhục đến đâu, có xơ xác lam lũ thế nào, có để lại những dấu ấn buồn đau đến mấy, thì vẫn có sức gọi dậy những vang bóng một thời đầy ắp những kỷ niệm mông lung, ấm áp.
Cơn lốc đô thị
Về làng, ta về làng, những tiếng ấy giục giã đến nao lòng những người vì cuộc mưu sinh phải xa cái làng quê yêu dấu của mình. "Ai về làng cũ hôm nay, Thư này đưa hộ cho thầy mẹ tôi. Con đi men mấy năm trời, Một thân bé bỏng, nửa đời gió sương... Con đi năm ấy tháng tư, Lúa chiêm xấp xỉ giỗ từ tháng ba. Con đi quạnh cửa quạnh nhà, Cha già đập lúa, mẹ già giũ rơm. Cha giậm gạo, mẹ vần cơm. Có con, con vắng, ai làm thay cho". (Nguyễn Bính).
Đô thị hóa đang về đến tận những vùng quê xa xôi nhất của đất nước.
Ảnh: Nguyễn Trần - DiaOcOnline.vn
Và, nói như Tô Hoài thì "mỗi cái cây ở thôn xóm cũng như con người đều mang sự tích cuộc đời và cái hồn cốt của nó" (Chuyện cũ Hà Nội). Chẳng phải chỉ Nguyễn Bính, chỉ Tô Hoài, không thiếu những tác phẩm văn học nghệ thuật sáng giá đã khơi dậy trong sâu thẳm tâm hồn người dân thành thị nỗi niềm xao xuyến ấy, bởi lẽ đơn giản: Đúng là không có người thành thị nào lại không có gốc gác làng quê.
Xin chỉ gợi ra đây nét độc đáo đó trong tác phẩm của danh họa Bùi Xuân Phái mà một trong đó, "Phố Phái", danh xưng đã đi vào lịch sử, được người Hà Nội trân trọng giữ gìn như báu vật của thủ đô. Qua đôi mắt thiên tài và đường nét, sắc màu của "Phố Phái", cảm quan thẩm mỹ đậm đặc đã thức dậy trong người nhìn ngắm niềm xao xuyến giữa “phố” và “làng”.
Với “Phố Phái”, chỉ có mái nâu cũ kỹ chẳng khác mấy với những mái ngói làng quê, được thăng hoa bên những gam màu quen thuộc trong cảm thức dân dã. Nét dáng "làng" và nét dáng "phố" quyện vào nhau, thức dậy những ý niệm sâu lắng về đất nước: nghèo, nhưng dám là mình. Phải chăng điều đó là một minh chứng sáng tỏ của cái gọi là bản sắc dân tộc? Nghĩ kỹ ra, ngọn nguồn của bản sắc ấy đến từ đâu nếu không phải từ văn hóa làng?
Trong sâu thẳm tâm thức người Việt, hình ảnh cây đa, bến nước, mái đình làng, ngôi chùa làng luôn ở vào cung bậc nhạy nhất và có sức gợi nhớ mãnh liệt.
Cái cảnh thanh bình này khiến cho bất kỳ người nào đi xa cũng nhớ da diết.
Ảnh: Nguyễn Trần - DiaOcOnline.vn
"Ngày qua ngày lại qua ngày. Lá xanh nhuộm đã thành cây lá vàng. Bảo rằng cách trở đò giang. Không sang là chẳng đường sang đã đành. Nhưng đây cách một đầu đình. Có xa xôi mấy cho tình xa xôi"! Có người cho rằng, cái quy luật tất yếu và phũ phàng của quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa, hiện đại hóa "ngày qua ngày lại qua ngày" dường như đã vùi dập không thương tiếc nền văn hóa làng. Cho dù có muốn cưỡng lại cũng chỉ là những khát khao vô vọng:
"Van em, em hãy giữ nguyên quê mùa, Như hôm em đi lễ chùa, Cứ ăn mặc thế cho vừa lòng anh". Câu thơ ấy ra đời đã hơn hai phần ba thế kỷ, giờ đây sau bao biến động, vật đổi sao dời, đọc lại càng thấy tội nghiệp cho sự vô vọng đó.
Đánh đổi?
Liệu có nhất thiết buộc phải đánh đổi một nông thôn xanh tươi và hài hòa với thiên nhiên, nơi ấp ủ nền văn hóa truyền thống dân tộc để đổi lấy một nông thôn tàn tạ, nham nhở, phố không ra phố, làng chẳng ra làng không? Câu hỏi đó như một điệp khúc buồn day dứt, cứ trở đi trở lại mãi khi người thành thị nghĩ về làng quê của mình, nghĩ về nền văn hóa làng. Không khéo lần công phá dữ dội của làn sóng đô thị hóa và công nghiệp hóa kỳ này, nếu không có một chuyển đổi về nhận thức và đường lối, sẽ là đòn trí mạng làm sụp đổ hẳn nền văn hóa làng ấy. Mà cần nhớ rằng, làm sụp đổ nền văn hóa làng, tức là nhổ bật cái gốc của văn hóa Việt Nam với cấu trúc chặt chẽ của ba nhân tố: văn hóa nhà, văn hóa làng và văn hóa nước, cái làm nên bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Nhạt phai gốc gác - làm sao phát triển?
Cần nhớ rằng các thế lực ngoại xâm trong mọi thời đại đã không sao đồng hóa được dân tộc này vì chúng có thể chiếm giữ được nước (thủ đô, huyết mạch giao thông) song không sao chiếm được làng, băng hoại được nền văn hóa làng. Còn làng thì còn nước, sự gắn kết làng-nước là sức sống bất tận của dân tộc ta. Cốt lõi của sức sống đó là gì, chất xi măng gắn kết mọi con người trong cộng đồng dân tộc này là gì, nếu không phải là văn hóa?
"Văn hóa làng" chính là cái nôi nuôi dưỡng tâm hồn Việt Nam, góp phần hun đúc nên bản sắc văn hóa dân tộc được vun đắp trong suốt chiều dài lịch sử mấy ngàn năm, không có cái gốc đó, không thể có bề dày văn hóa hôm nay.
Đương nhiên, cũng trong văn hóa làng đã trầm tích những nét tiêu cực của con người Việt Nam nông dân. Lối suy nghĩ vụn vặt, tản mạn tự trói mình trong lũy tre làng của lối sống tự cấp tự túc không sao chuyển nổi sang kinh tế hàng hóa để phát triển bứt lên. Nhưng văn hóa làng không chỉ có thế. Cùng với những tiêu cực phải xóa bỏ, phải biết ra sức trân trọng gìn giữ và phát huy những cốt lõi tinh hoa của văn hóa làng, cái gốc của văn hóa dân tộc.
|
Mộ ông bà nằm ngay trên đất ruộng cạnh nhà để con cháu dễ bề thăm viếng cũng là 2 nét văn hóa hướng về cội nguồn thường thấy ở làng quê Việt Nam. Ảnh: Nguyễn Trần - DiaOcOnline.vn
|
Càng đi vào hiện đại, càng tiến sâu vào quá trình hội nhập quốc tế, càng phải biết gìn giữ, vun đắp cho cái gốc ấy. Đã mất gốc thì làm sao phát triển, cho dù kinh tế có tăng trưởng bao nhiêu mà văn hóa lai căng, mất gốc thì sự tăng trưởng đó chẳng có được bao nhiêu ý nghĩa. Đấy là chưa nói đến chuyện, trong những thập kỷ bước sang thế kỷ XXI, thế giới ngày càng nhận thức rõ chính văn hóa mới là động lực và sức mạnh của phát triển. Trong quá trình toàn cầu hóa về kinh tế, mỗi quốc gia lại phải lo gìn giữ và phát triển bản sắc văn hóa của mình. Văn hóa Việt Nam là gì để có thể góp vào sự đa dạng đó?
Liệu có thể đánh thức cảm quan thẩm mỹ “
Qua đình ngã nón trông đình. Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu” và biết xao động với hình ảnh "
Sư già quét lá sau chùa, Để thiêu xác lá trước giờ lên chuông" trong xã hội hiện đại?
Hoài cổ ư? Cũng có thể. Nhưng xin nhớ cho, một trong 18 bộ phim hay nhất qua mọi thời đại của điện ảnh châu Á do đài CNN (Mỹ) bình chọn năm 2008 chính là phim Bao giờ cho đến tháng mười của đạo diễn Đặng Nhật Minh, bộ phim duy nhất của điện ảnh Việt Nam được đưa vào trong danh sách bình chọn đó. Phải chăng vì chiều sâu thẳm của bộ phim đó đề cập đến một chủ đề hiện đại trên một cái nền của cảm quan thẩm mỹ dân tộc.
Và có đúng là đã một đi không trở lạicâu thơ Nguyễn Bính:
"Trên đường cát mịn một đôi cô. Yếm đỏ khăn thâm trẩy hội chùa. Gậy trúc dắt bà già tóc bạc. Tay lần tràng hạt miệng nam mô"? Liệu có phải đây chỉ là hoài niệm về một vùng thương nhớ, quyến rũ mà dường như đã một đi không trở lại? Nhất là khi mà tiến trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa được đẩy tới, mà ai đó trong cái nhìn thiển cận ăn xổi ở thì, cứ ngỡ như chỉ muốn đưa chuyện thi “người mẫu”, thi “hoa hậu” lượn lờ khoe các vòng eo thay cho "yếm đỏ khăn thâm trẩy hội chùa"! Liệu có tất yếu phải cho lên ngôi chiếc áo tắm hai mảnh là biểu tượng của văn minh đô thị thay cho nét duyên thầm kín đáo của cô gái làng không nhỉ?
Trong một bài viết cảm động, tác giả của Về nguồn đăng trên Văn hóa Phật giáo, nhà sư Thích Chơn Thiện khẩn khoản: "Đất vua, chùa làng, phong cảnh Bụt; chùa làng vốn là căn bản của Phật giáo, với số nông dân chiếm khoảng 70% dân số cả nước, thế mà hình ảnh ngôi chùa làng, tiếng chuông thanh thản, đầm ấm đang trở nên hiếm hoi ở nóng thôn... Về làng cũng chính là về nguồn, về với tâm hồn dân tộc, với an bình, hạnh lạc. Mong thay!".
Phải chăng đây cũng là niềm mong ước của phần lớn người thành thị gắn bó với cội nguồn của mình?
DiaOcOnline.vn - Theo Người Đô Thị