Café Luật – Chuyên mục hợp tác giữa Cổng thông tin và giao dịch DiaOcOnline.vn và Công ty luật TNHH Đức An xin gửi đến bạn lời chào trân trọng. Theo nội dung thư bạn gửi; Căn cứ vào những quy định của pháp luật hiện hành Café Luật xin phúc đáp đến bạn như sau:
Luật sư Phạm Thị Bích Hảo, Công ty luật TNHH Đức An, Thanh Xuân, Hà Nội trả lời:
Theo thông tin của bạn thì thửa đất đã có từ trước năm 1998, thời điểm bán đất vườn là 1998 vì vậy căn cứ luật áp dụng là Luật Đất Đai 1993.
Thứ nhất: Về hình thức chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Khoản 2 Điều 75 Luật Đất đai 1993 quy định: “2- Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất ở, do chuyển đi nơi khác hoặc không còn nhu cầu ở được chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Việc chuyển nhượng phải được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cho phép. Người nhận đất phải sử dụng đúng mục đích.”
Khoản 2 Điều 31 Luật Đất đai 1993 quy định: “2- Thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở nông thôn làm tại Uỷ ban nhân dân huyện; ở đô thị làm tại Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.”
Theo đó, tại thời kỳ năm 1988 và năm 2000, việc chuyển nhượng đất phải được thực hiện tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền và phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép. Việc chuyển nhượng chỉ bằng giấy viết tay là không đúng quy định của pháp luật.
Tuy nhiên, để bảo vệ quyền lợi cho người sử dụng đất, Khoản 2 Điều 101 Luật Đất đai 2013 quy định: “2. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này nhưng đất đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 01 tháng 7 năm 2004 và không vi phạm pháp luật về đất đai, nay được Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch chi tiết xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt đối với nơi đã có quy hoạch thì được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.” Như vậy, 2 gia đình đã nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất vào năm 1998 và 2000, nếu sử dụng ổn định, lâu dài từ thời điểm nhận chuyển nhượng đến nay, không bị xử phạt vi phạm pháp luật về đất đai và được UBND xã công nhận là không có tranh chấp đối với đất thì mới được công nhận quyền sử dụng đất.
Thứ hai: Về vấn đề tách thửa
Khoản 11 Điều 9 Thông tư 24/2014/TT-BTNMT quy định.“11. Hồ sơ nộp khi thực hiện thủ tục tách thửa hoặc hợp thửa đất: a) Đơn đề nghị tách thửa hoặc hợp thửa theo Mẫu số 11/ĐK; b) Bản gốc Giấy chứng nhận đã cấp.”
Như vậy, để thực hiện thủ tục tách thửa, gia đình bạn phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do gia đình bạn chỉ chuyển nhượng một phần diện tích đất sử dụng, hơn nữa hồ sơ nộp để thực hiện thủ tục tách thửa phải có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp, vì vậy nếu muốn thực hiện thủ tục tách thửa, hai gia đình đã nhận chuyển nhượng phải có sự xác nhận của chủ sử dụng đất là đại diện gia đình bạn . Trong quá trình thực hiện tách thửa, các bên lưu ý phải tuân thủ theo quy định về diện tích tối thiểu được phép tách thửa tại Khoản 2 Điều 3 Quyết định 19/2009/QĐ-UBND (sửa đổi, bổ sung bằng Quyết định 54/2012/QĐ-UBND) do UBND thành phố Hồ Chí Minh ban hành.
***
Chúng tôi hy vọng rằng, ý kiến tư vấn của chúng tôi sẽ giúp làm sáng tỏ các vấn đề mà bạn đang quan tâm. Trên từng vấn đề cụ thể, nếu bạn cần tham khảo thêm ý kiến chuyên môn của chúng tôi, xin hãy liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ email cafeluat@diaoconline.vn.
* Bạn đọc vui lòng gửi nội dung được ghi bằng tiếng Việt có dấu.
Trân trọng.
Chuyên mục Café Luật
DiaOcOnline.vn mong muốn trở thành cầu nối cho bạn đọc với các chuyên gia trong từng lĩnh vực địa ốc. Hiện nay, qua DiaOcOnline.vn, bạn có thể kết nối với các chuyên gia trong lĩnh vực kiến trúc, pháp lý nhà đất, phong thủy nhà đất.
Nếu có nhu cầu được tư vấn về kiến trúc, pháp lý, phong thủy trong lĩnh vực nhà đất, bạn hãy click ngay vào đây để tìm hiểu về nhà tư vấn và gửi câu hỏi. Chúng tôi sẽ liên hệ với chuyên gia và đưa ra câu trả lời cho bạn trong thời gian sớm nhất.