Đề xuất công khai thông tin bất động sản trên website

Cập nhật 02/10/2013 14:36

Thông tin về bất động sản được công khai tại dự án bất động sản, trụ sở làm việc và trang tin điện tử (website) của chủ đầu tư. Trường hợp kinh doanh qua sàn giao dịch bất động sản thì còn phải công khai tại sàn giao dịch bất động sản và trên các phương tiện thông tin đại chúng theo quy định.


Đề xuất trên được Bộ Xây dựng đưa ra tại dự thảo Luật Kinh doanh bất động sản (sửa đổi).

Theo dự thảo, tổ chức, cá nhân kinh doanh bất động sản có trách nhiệm công khai thông tin về bất động sản đưa vào kinh doanh.

Nội dung thông tin về bất động sản bao gồm: Loại bất động sản; vị trí bất động sản; thông tin về quy hoạch có liên quan đến bất động sản; quy mô, diện tích của bất động sản; đặc điểm, tính chất, công năng sử dụng, chất lượng của bất động sản; thực trạng các công trình hạ tầng, các dịch vụ về kỹ thuật và xã hội có liên quan đến bất động sản; tình trạng pháp lý của bất động sản bao gồm hồ sơ, giấy tờ về quyền sở hữu, quyền sử dụng bất động sản và giấy tờ có liên quan đến việc tạo lập bất động sản; lịch sử về sở hữu, sử dụng bất động sản; giá bán, chuyển nhượng, thuê, thuê mua bất động sản…

Điều kiện hoạt động kinh doanh bất động sản

Để tăng cường quản lý hoạt động kinh doanh bất động sản, Bộ Xây dựng đã đề xuất quy định chặt chẽ hơn về điều kiện đối với tổ chức, cá nhân hoạt động kinh doanh loại hình này

Cụ thể, theo dự thảo, tổ chức, cá nhân khi kinh doanh bất động sản phải thành lập doanh nghiệp hoặc hợp tác xã, phải có vốn pháp định và đăng ký kinh doanh bất động sản theo quy định của pháp luật. Việc xác nhận vốn pháp định của doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp, hợp tác xã và đăng ký kinh doanh.

Dự thảo nêu rõ, Chính phủ quy định cụ thể về vốn pháp định cho phù hợp điều kiện phát triển kinh tế-xã hội từng thời kỳ.

Tương tự, tổ chức, cá nhân khi kinh doanh dịch vụ bất động sản cũng phải thành lập doanh nghiệp hoặc hợp tác xã, đăng ký kinh doanh dịch vụ bất động sản theo quy định của pháp luật.

Theo dự thảo, thay vì chỉ cần có chứng chỉ như hiện nay, tổ chức khi kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản phải có ít nhất 2 người có Thẻ hành nghề môi giới bất động sản; khi kinh doanh dịch vụ định giá bất động sản phải có ít nhất 2 người có Thẻ hành nghề định giá bất động sản; khi kinh doanh dịch vụ sàn giao dịch bất động sản phải có ít nhất 2 người có Thẻ hành nghề môi giới bất động sản, nếu có dịch vụ định giá bất động sản thì phải có ít nhất hai người có Thẻ hành nghề định giá bất động sản.

Cá nhân kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản độc lập phải đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật và có Thẻ hành nghề môi giới bất động sản (hiện nay chỉ cần chứng chỉ môi giới bất động sản).

Điều kiện bất động sản đưa vào kinh doanh

Theo dự thảo, nhà, công trình xây dựng đưa vào kinh doanh phải có các điều kiện sau đây: Thuộc đối tượng được phép kinh doanh; đối với nhà, công trình xây dựng mới phải bảo đảm chất lượng theo quy định của pháp luật về xây dựng; đối với nhà, công trình xây dựng đã qua sử dụng thì yêu cầu về chất lượng do các bên thỏa thuận trong hợp đồng; không có tranh chấp về quyền sở hữu; không bị kê biên để thi hành án hoặc để chấp hành quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; không nằm trong khu vực cấm xây dựng theo quy định của pháp luật về xây dựng.

Đồng thời, nhà, công trình xây dựng phải có hồ sơ. Cụ thể: Đối với nhà, công trình xây dựng đã có sẵn thì phải có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc giấy tờ hợp pháp chứng minh quyền sở hữu nhà, công trình xây dựng và quyền sử dụng đất gắn với nhà, công trình xây dựng đó. Đối với nhà, công trình xây dựng hình thành trong tương lai thì phải có hồ sơ dự án, thiết kế bản vẽ thi công đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt và Giấy phép xây dựng theo quy định của pháp luật về xây dựng.

Bên cạnh đó, quyền sử dụng đất đưa vào kinh doanh phải có các điều kiện sau: Thuộc đối tượng được phép kinh doanh; có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất hoặc giấy tờ hợp pháp chứng minh quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật; không có tranh chấp về quyền sử dụng đất; trong thời hạn sử dụng đất; không bị kê biên để thi hành án hoặc để chấp hành quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

DiaOcOnline.vn - Theo Báo điện tử Chính phủ