Tôi có phần đất nông nghiệp ở Long An do cha mẹ quá cố để lại, trên sổ đỏ ghi diện tích 528m2 cấp từ khoảng trước năm 2000. Phần đất kế bên của người anh thứ ba có diện tích 548m2 lấy bờ ruộng ở giữa làm ranh dưới sự chứng kiến của tất cả anh em họ hàng. Trên thực tế đất tôi 45x15m (dư khoảng 45x2m\), trên thực tế đất anh ba tôi 45x17.5m (dư khoảng 45x5m).
Kính gửi Luật sư,
Tôi có phần đất nông nghiệp ở Long An do cha mẹ quá cố để lại, trên sổ đỏ ghi diện tích 528m2 cấp từ khoảng trước năm 2000. Phần đất kế bên của người anh thứ ba có diện tích 548m2 lấy bờ ruộng ở giữa làm ranh dưới sự chứng kiến của tất cả anh em họ hàng. Trên thực tế đất tôi 45x15m (dư khoảng 45x2m\), trên thực tế đất anh ba tôi 45x17.5m (dư khoảng 45x5m).
Thời gian gần đây đất quê tôi phát triển sầm uất, người anh thứ 3 phá bờ ranh và xây nhà sát trên bờ ranh đó, thậm chí còn có thái độ giành khoảng đất dư của tôi để trồng cây kiểng và nói là "tôi là anh cả, tôi chỉ cho cô bấy nhiêu đó theo đúng giấy tờ trên sổ đỏ". Thực tế người chia đất cho tất cả anh em chúng tôi là người anh thứ út xác nhận phần đất chia cho tôi là ngay bờ ranh đã được phá để xây cất nhà. Người anh út xác nhận bờ ranh đất là trước khi tôi làm sổ đỏ (trước năm 2000) nhưng không có giấy tờ chỉ nói và thống nhất với anh em trong nhà như thế.
Xin được hỏi tôi phải làm thế nào để lấy lại phần đất dư 45x2m? Hiện nay đất tôi sắp hết hạn và chuẩn bị gia hạn quyền sử dụng đất, tôi có được bổ sung phần đất dư đó vào sổ đỏ hay không, thủ tục như thế nào, có tốn kém nhiều không??
Rất mong được giúp đỡ!!! Chân thành cám ơn!
Kính gửi: Quý bạn đọc
Café Luật – Chuyên mục hợp tác giữa Cổng thông tin và giao dịch DiaOcOnline.vn và Công ty Luật Giải Phóng xin gửi đến bạn lời chào trân trọng. Theo nội dung thư bạn gửi; Căn cứ vào những quy định của pháp luật hiện hành Cafe Luật xin phúc đáp đến bạn như sau:
Nếu các bên không thể thỏa thuận được với nhau thì có quyền khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, trước khi tiến hành thủ tục khởi kiện, các bên cần tiến hành hòa giải ở cấp cơ sở. Trình tự, thủ tục hòa giải được quy định cụ thể tại Điều 135 Luật Đất đai như sau:
Điều 135 Luật đất đai năm 2003 quy định về hoà giải tranh chấp đất đai:
“1. Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hoà giải hoặc giải quyết tranh chấp đất đai thông qua hoà giải ở cơ sở.
2. Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hoà giải được thì gửi đơn đến Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất tranh chấp.
Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn có trách nhiệm phối hợp với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã hội khác để hoà giải tranh chấp đất đai.
Thời hạn hoà giải là ba mươi ngày làm việc, kể từ ngày Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nhận được đơn.
Kết quả hoà giải tranh chấp đất đai phải được lập thành biên bản có chữ ký của các bên tranh chấp và xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất. Trường hợp kết quả hoà giải khác với hiện trạng sử dụng đất thì Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn chuyển kết quả hoà giải đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để giải quyết theo quy định về quản lý đất đai.”
Sau khi hòa giải tại cấp cơ sở, nếu hai bên vẫn không thể thỏa thuận được với nhau thì một trong các bên tranh chấp có quyền khởi kiện ra tòa án quận huyện nơi có đất đai để giải quyết tranh chấp. Theo Khoản 7 Điều 25 Bộ luật tố tụng dân sự thì tranh chấp về quyền sử dụng đất, về tài sản gắn liền với đất thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.
Tại Điều 50 Luật Đất đai về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân cư đang sử dụng đất, điều kiện để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là đất không có tranh chấp. Do đó, nếu phần đất chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà có tranh chấp thì chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khoản 5 Điều 50 nói trên quy định thêm:
“Hộ gia đình, cá nhân được sử dụng đất theo bản án hoặc quyết định của Toà án nhân dân, quyết định thi hành án của cơ quan thi hành án, quyết định giải quyết tranh chấp đất đai của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã được thi hành thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sau khi thực hiện nghĩa vụ tài chính theo quy định của pháp luật.”
Như vậy, sau khi có bản án, quyết định của tòa án, nếu bạn được quyền sử dụng đất theo phán quyết của tòa án, sau khi thực hiện các nghĩa vụ tài chính thì bạn sẽ được công nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất dư đó.
Chúng tôi hy vọng rằng, ý kiến tư vấn của chúng tôi sẽ giúp làm sáng tỏ các vấn đề mà bạn đang quan tâm. Trên từng vấn đề cụ thể, nếu bạn cần tham khảo thêm ý kiến chuyên môn của chúng tôi, xin hãy liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ email cafeluat@diaoconline.vn hoặc qua Tổng đài tư vấn 19006665
* Bạn đọc vui lòng gửi nội dung được ghi bằng tiếng Việt có dấu.
Trân trọng.
Chuyên mục Café Luật
DiaOcOnline.vn mong muốn trở thành cầu nối cho bạn đọc với các chuyên gia trong từng lĩnh vực địa ốc. Hiện nay, qua DiaOcOnline.vn, bạn có thể kết nối với các chuyên gia trong lĩnh vực kiến trúc, pháp lý nhà đất, phong thủy nhà đất.
Nếu có nhu cầu được tư vấn về kiến trúc, pháp lý, phong thủy trong lĩnh vực nhà đất, bạn hãy click ngay vào đây để tìm hiểu về nhà tư vấn và gửi câu hỏi. Chúng tôi sẽ liên hệ với chuyên gia và đưa ra câu trả lời cho bạn trong thời gian sớm nhất.
DiaOcOnline.vn