Bà ngoại em năm nay 89 tuổi, vẫn còn minh mẫn. Đất ngoại em đang ở là do ông bà cho lại cho ngoại. Lúc truớc ông ngoại đứng quyền sử dụng đất nhưng khi ông ngoại mất cậu đã tự ý chuyển sang tên cậu đứng chủ quyền. Cậu nói chỉ đứng chủ quyền trong sổ hộ khẩu (Sổ hộ khẩu gia đình em còn ngoại, cậu, mợ, con trai cậu và dâu, mẹ em, dì ba và em) gia đình em tin tuởng cậu nên đưa sổ đỏ để cậu đi vay tiền nhà nuớc nhưng cậu tự ý sang tên và không cho chia đất. Hiện tại đất này có 3 nền nhà 1 là nhà thờ cậu đang ở; 2 là nhà dì bảy; 3 là nhà dì 3.
Café Luật – Chuyên mục hợp tác giữa Cổng thông tin và giao dịch DiaOcOnline.vn và Công ty luật TNHH Đức An xin gửi đến bạn lời chào trân trọng. Theo nội dung thư bạn gửi; Căn cứ vào những quy định của pháp luật hiện hành Café Luật xin phúc đáp đến bạn như sau:
Luật sư Phạm Thị Bích Hảo, Công ty luật TNHH Đức An, Thanh Xuân, Hà Nội trả lời:
Khối tài sản trên được xác định là tài sản chung của vợ chồng (ông ngoại và bà ngoại của bạn. Điều 31 Khoản 2 Luật Hôn nhân và gia đình 2000 quy định: “2. Khi vợ hoặc chồng chết hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết thì bên còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp trong di chúc có chỉ định người khác quản lý di sản hoặc những người thừa kế thỏa thuận cử người khác quản lý di sản.”
Theo đó, chỉ có một nửa khối tài sản nêu trên được xác định là di sản thừa kế do ông của bạn để lại và được chia thừa kế. Phần tài sản còn lại thuộc quyền định đoạt của bà bạn.
Căn cứ Điểm a Khoản 2.4 Mục I Nghị quyết 02/2004/NQ-HĐTP:
“a. Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết…”.
Theo đó, phần diện tích đất là di sản thừa kế do ông của bạn để lại nay thuộc quyền sở hữu chung của những người đồng thừa kế.
Trong trường hợp giữa các bên có tranh chấp về đất đai mà một trong các bên có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì các bên có quyền lựa chọn hình thức giải quyết tranh chấp theo quy định tại Điều 203 Khoản 1 Luật Đất đai 2013:
“Tranh chấp đất đai đã được hòa giải tại Ủy ban nhân dân cấp xã mà không thành thì được giải quyết như sau:
1. Tranh chấp đất đai mà đương sự có Giấy chứng nhận hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại Điều 100 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất thì do Tòa án nhân dân giải quyết;”.
***
Chúng tôi hy vọng rằng, ý kiến tư vấn của chúng tôi sẽ giúp làm sáng tỏ các vấn đề mà bạn đang quan tâm. Trên từng vấn đề cụ thể, nếu bạn cần tham khảo thêm ý kiến chuyên môn của chúng tôi, xin hãy liên hệ trực tiếp với chúng tôi theo địa chỉ email cafeluat@diaoconline.vn.
* Bạn đọc vui lòng gửi nội dung được ghi bằng tiếng Việt có dấu.
Trân trọng.
Chuyên mục Café Luật
DiaOcOnline.vn mong muốn trở thành cầu nối cho bạn đọc với các chuyên gia trong từng lĩnh vực địa ốc. Hiện nay, qua DiaOcOnline.vn, bạn có thể kết nối với các chuyên gia trong lĩnh vực kiến trúc, pháp lý nhà đất, phong thủy nhà đất.
Nếu có nhu cầu được tư vấn về kiến trúc, pháp lý, phong thủy trong lĩnh vực nhà đất, bạn hãy click ngay vào đây để tìm hiểu về nhà tư vấn và gửi câu hỏi. Chúng tôi sẽ liên hệ với chuyên gia và đưa ra câu trả lời cho bạn trong thời gian sớm nhất.