Trong thời gian từ năm 2004 đến đầu năm 2006, thị trường bất động sản (BĐS) “nguội lạnh”. Nhiều cuộc hội thảo được tổ chức nhằm tìm nguyên nhân...
Trong thời gian từ năm 2004 đến đầu năm 2006, thị trường bất động sản (BĐS) “nguội lạnh”. Nhiều cuộc hội thảo được tổ chức nhằm tìm nguyên nhân để có giải pháp “hâm nóng” thị trường. Hai năm sau thị trường này lại quá nóng. Người ta lại tổ chức hội thảo để xác định… nguyên nhân. Và các giải pháp đưa ra để “hâm nóng” hay “giảm nhiệt” thị trường này cũng có nhiều ý kiến khác nhau.
Thiếu nguồn cung
Ông Trần Văn Thành, Tổng giám đốc CTCP Vạn Phát Hưng, cho biết TPHCM hiện có khoảng 4.000 doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực địa ốc. Trong đó có khoảng 800 doanh nghiệp có thực hiện dự án, nhưng những doanh nghiệp thực sự có năng lực thực hiện những dự án lớn chỉ chừng 50.
Một dự án từ lúc bắt đầu khởi động đến lúc cho ra sản phẩm nhanh nhất cũng mất 3 - 4 năm. Và với chừng ấy doanh nghiệp thì hàng năm, sản phẩm (căn hộ) đưa ra thị trường còn rất hạn chế là điều dễ hiểu. Trong khi đó theo tính toán cứ 10 người thì có một người có nhu cầu về BĐS.
Rõ ràng nhu cầu về BĐS là rất lớn, nhất là tầng lớp “làm công ăn lương”, các bạn trẻ vừa lập gia đình. Trong khi đó những năm qua nhiều chương trình nhà ở của TP đưa ra để phục vụ cho người thu nhập thấp không đem lại kết quả như mong muốn.
Về phía doanh nghiệp lại có xu hướng tìm đến khách hàng là những người có mức thu nhập cao. Nhưng ngay trong các đối tượng có tiền này, thì không ít người bỏ tiền mua nhà, đất không phải để ở mà mua để đó chờ lên giá bán lại kiếm lời. Đó là chưa kể những người chuyên “đầu tư” kiểu này, mà xã hội gọi đó là những kẻ đầu cơ.
Quỹ đất không sinh ra thêm, còn sản phẩm nhà cũng không thể “sản xuất” ào ạt được. Cùng với nhiều nguyên nhân, bất cập khác thì thị trường BĐS nước ta hiện nay không thiếu nguồn cung mới là chuyện lạ.
Trở lại hai cơn sốt nhà đất vào năm 2001 - 2003 và cuối năm 2006 đầu năm 2007, các chuyên gia địa ốc cho rằng đó là sốt thật. Nhưng cơn sốt năm 2001 - 2003 là do cầu ảo tạo nên. Khi đó Luật Đất đai mới được ban hành (có hiệu lực từ ngày 1/7/2004), các văn bản pháp lý khác cũng xác định giá đất có thỏa thuận, vì vậy nhiều người đã mua đất chờ giá lên.
Còn cơn sốt cuối năm 2006 đầu năm 2007 là do cầu thật tạo nên. Tại thời điểm này chúng ta đã gia nhập WTO, rất nhiều tập đoàn kinh tế nước ngoài tìm đến làm ăn khiến nhu cầu về văn phòng, căn hộ tăng lên. Bên cạnh đó, đời sống người dân cũng tăng cao nên có nhu cầu về chỗ ở tốt hơn.
Chọn BĐS làm kênh đầu tư
Ngoài nhu cầu thật sự khiến thị trường BĐS nóng sốt, một nguyên nhân khác là do nhiều nhà đầu tư (chính quy và nhỏ lẻ) chọn BĐS làm kênh đầu tư. Lý giải điều này, nhiều chuyên gia địa ốc, cho rằng trước đây khi có tiền, người dân thường gửi vào ngân hàng nhưng do lãi suất tiền gửi ngân hàng không đủ bù vào lạm phát, nên họ chuyển sang sử dụng vào mục đích khác.
Thực tế hiện nay, không ít người chưa biết nhiều về BĐS cũng đổ xô vào đầu tư nhà, đất đã góp phần làm cho thị trường BĐS sốt nóng. Rõ ràng nhu cầu về nhà, đất là có thật (cho dù là để ở hay để đầu cơ). Và trong bối cảnh cung chưa đủ cầu, thì đầu tư vào lĩnh vực nhà, đất vẫn được coi là an toàn và lời nhất so với đồng tiền mà người đầu tư đã bỏ ra.
Một chuyên gia có uy tín trong lĩnh vực nhà-đất nhận định: Giá nhà - đất ngày càng tăng là điều tất yếu vì đây là hàng hóa đặc biệt có nguồn cung hạn chế. Nhưng vấn đề tăng bao nhiêu là hợp lý? Theo ông cứ mỗi năm tăng khoảng 20% là vừa. Tuy nhiên thực tế tại TPHCM cho thấy có những dự án, khu vực giá đất tăng đến khó ngờ.
Tại xã Phước Kiển (Nhà Bè) giá đất nông nghiệp vào tháng 11 - 2006 mỗi mét vuông từ 300 - 400 ngàn đồng, nay đã lên đến 2 triệu đồng/m2. Dự án Phú Xuân (đất nền) cũng tại huyện Nhà Bè trong năm 2006 giá chỉ 2,6 triệu đồng/m2, nay đã lên đến 12 triệu đồng. Nhiều dự án đất nền, căn hộ chỉ trong vòng một năm đã tăng đến 200 - 300%.
Giá nhà đất tăng nhanh như vậy, nhưng theo nhiều chủ đầu tư dự án, lợi nhuận chủ yếu rơi vào nhà đầu tư thứ cấp. Giá bán ra ban đầu khá thấp, lợi nhuận khoảng 20% so với tổng vốn đầu tư, nhưng sau vài lần sang nhượng đã đẩy giá tăng vài trăm phần trăm so với ban đầu. Người mua sau cùng - tức người có nhu cầu thực sự phải chịu giá cao nhất
Giao dịch BĐS chưa qua sàn vẫn chiếm tỷ lệ rất lớn. Quy hoạch phát triển đô thị còn thiếu và việc công khai quy hoạch để thu hút đầu tư chưa thực hiện tốt. Nhiều nhà đầu tư trong và ngoài nước muốn đầu tư phát triển BĐS nhưng không có thông tin để tiếp cận các dự án, làm hạn chế nguồn cung cho thị trường.
Cho đến nay vẫn chưa có quy chế hướng dẫn quy mô sàn giao dịch phải như thế nào, ai cấp phép hoạt động? Để nhân viên môi giới hoạt động thì phải có chứng chỉ hành nghề nhưng chứng chỉ này ai cấp, đào tạo ở đâu vẫn chưa có quy định cụ thể. Nhiều doanh nghiệp muốn thành lập sàn nhưng không biết căn cứ vào đâu.
Theo Sài Gòn Giải Phóng