“UBND quận, huyện thống nhất sử dụng bộ bản đồ địa chính có tọa độ kết hợp các tài liệu như bản đồ trích đo theo hiện trạng mới nhất, tài liệu bản đồ số, sổ bộ được thành lập theo Chỉ thị 299/TTg, Chỉ thị 02 của UBND TP và kết quả thẩm tra xác minh về nguồn gốc, hiện trạng quá trình quản lý sử dụng để xác định diện tích, loại đất trong quá trình bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất cũng như khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Ngày 24-6, Giám đốc Sở TN&MT Đào Anh Kiệt đã ký văn bản kiến nghị UBND TP chấp thuận:
“UBND quận, huyện thống nhất sử dụng bộ bản đồ địa chính có tọa độ kết hợp các tài liệu như bản đồ trích đo theo hiện trạng mới nhất, tài liệu bản đồ số, sổ bộ được thành lập theo Chỉ thị 299/TTg, Chỉ thị 02 của UBND TP và kết quả thẩm tra xác minh về nguồn gốc, hiện trạng quá trình quản lý sử dụng để xác định diện tích, loại đất trong quá trình bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất cũng như khi cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”.
Theo đó, Sở TN&MT cho hay thời gian qua công tác bồi thường hỗ trợ khi thu hồi đất gặp nhiều vướng mắc liên quan đến việc xem xét xác định loại đất, diện tích đất được bồi thường. Đặc biệt là trường hợp đất ở có vườn ao vì nếu đất vườn ao được xác định là chung một thửa với đất có nhà ở đã sử dụng ổn định thì giá trị sẽ rất cao. Đây là vấn đề hết sức phức tạp và nhạy cảm, dễ phát sinh sai sót, khiếu nại, tiêu cực.
“Một trong những nguyên nhân chính gây nên vướng mắc trên là bản đồ địa chính được lập trong quá trình quản lý nhà nước về đất đai có những hạn chế, khiếm khuyết” - sở này nhận định. Ví dụ như bản đồ địa chính lập theo Chỉ thị 299 thực hiện trên cơ sở đều vẽ không ảnh nên sự chính xác không cao. Bản đồ theo Chỉ thị 02 chính xác hơn nhưng thời gian thực hiện kéo dài nên nhiều biến động không cập nhật trong khi công tác cấp giấy vẫn phải tiến hành kể cả khi chưa đo đạc theo chỉ thị này.
Sở cho hay những sai sót thiếu nhất quán về tiêu chí trong quá trình điều tra, đo đạc của cán bộ đo đạc, những biến động phát sinh trong thực tiễn không được cập nhật kịp. Trong khi đó, bản đồ địa chính có tọa độ được lập bằng công nghệ số, thời gian đo đạc từ năm 1998-2008, được giữ bằng file nên có độ chính xác khá cao so với các tài liệu trên giấy trước đó, đáp ứng cơ bản nhu cầu sử dụng đất.