Do Luật Công chứng không quy định các trường hợp ủy quyền bán nhà, đất phải được lập thành hợp đồng, nên theo Bộ Tư pháp, đương sự có quyền lựa chọn hình thức hợp đồng...
Hiện tại, ủy quyền bán nhà, đất có thể thực hiện bằng giấy ủy quyền. Ảnh: MT |
Do Luật Công chứng không quy định các trường hợp ủy quyền bán nhà, đất phải được lập thành hợp đồng, nên theo Bộ Tư pháp, đương sự có quyền lựa chọn hình thức hợp đồng ủy quyền hoặc giấy ủy quyền.
Trả lời thắc mắc của Cục Lãnh sự (Bộ Ngoại giao) về việc công chứng văn bảm ủy quyền của cơ quan đại diện Việt Nam nước ngoài, Bộ Tư pháp đã ra Công văn 3298 ngày 16-9 có ý kiến như sau:
Liên quan đến công chứng văn bản ủy quyền, Khoản 1 Điều 48 Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 8-12-2000 về công chứng, chứng thực quy định: “Việc ủy quyền có thù lao, có nghĩa vụ bồi thường của bên được ủy quyền hoặc để chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng bất động sản phải được lập thành hợp đồng”. Trong khi đó, Luật Công chứng năm 2006 không có quy định nào liên quan đến nội dung này.
Tuy nhiên, Điều 67 Luật Công chứng về hiệu lực thi hành không quy định Nghị định số 75/2000/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn hết hiệu lực thi hành. Về nguyên tắc áp dụng pháp luật, những quy định của văn bản quy phạm pháp luật phải phù hợp với quy định của văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao hơn.
Trước mắt, trong khi chưa có hướng dẫn chính thức, do Luật Công chứng không quy định các trường hợp ủy quyền nói trên phải được lập thành hợp đồng, nên theo Bộ Tư pháp, đương sự có quyền lựa chọn hình thức hợp đồng ủy quyền hoặc giấy ủy quyền theo quy định của pháp luật dân sự. Để đảm bảo an toàn cho các bên tham gia giao dịch, cơ quan chức năng nên khuyến cáo các bên lập hợp đồng ủy quyền để bảo đảm chặt chẽ, tránh rủi ro pháp lý về sau.
Hiện Bộ Tư pháp đang tiến hành nghiên cứu, rà soát các quy định của Nghị định số 75/2000/NĐ-CP và sẽ có hướng dẫn thống nhất về vấn đề này.
Đối với việc công chứng hợp đồng, giao dịch nói chung và công chứng hợp đồng ủy quyền, giấy ủy quyền của cơ quan đại diện Việt nam ở nước ngoài được thực hiện theo Điều 65 Luật Công chứng.
Việc chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký của cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài được thực hiện theo Khoản 3 Điều 5 Nghị định số 79/2007/NĐ-CP ngày 18-5-2007 về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký.
DiaOcOnline.vn - Theo Pháp Luật TP