Cầu Thê Húc, đền Ngọc Sơn

Cập nhật 25/11/2009 14:50

Ở thế kỷ 21, có một Hà Nội đang thay da đổi thịt từng ngày. Náo nhiệt, nhộn nhịp và phát triển. Và cũng có một Hà Nội vẫn cần mẫn bảo tồn những tinh hoa văn hóa của dân tộc. Đấy là quần thể di tích...

Ở thế kỷ 21, có một Hà Nội đang thay da đổi thịt từng ngày. Náo nhiệt, nhộn nhịp và phát triển. Và cũng có một Hà Nội vẫn cần mẫn bảo tồn những tinh hoa văn hóa của dân tộc. Đấy là quần thể di tích “Đền Ngọc Sơn - cầu Thê Húc - tháp Bút - đài Nghiên”, một biểu tượng văn hóa của Hà Nội xưa.

Mặt nước hồ Gươm trăm năm soi bóng đất Hà thành - Ảnh: Tiến Thành


Đã mấy trăm năm, người Hà Nội vẫn tự nhắn nhủ nhau và nhắn nhủ với du khách bốn phương về tụ hội trên mảnh đất kinh kỳ:

"Rủ nhau xem cảnh Kiếm hồ

Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn

Đài Nghiên, tháp Bút chưa mòn

Hỏi ai gây dựng nên non nước này"

(Ca dao cổ)


Cầu Thê Húc, chùa Ngọc Sơn vẫn còn đây. Dịu dàng và đằm thắm giữa mênh mông sóng nước xanh như mực của hồ Gươm. Đài Nghiên, tháp Bút đứng sừng sững, uy nghiêm, tựa ngàn ngọn bút lông tua tủa viết lên trời xanh.

 

Tháp Bút năm tầng đứng sừng sững giữa trời xanh - Ảnh: Tiến Thành


Gần một ngàn năm trước, những quần thể di tích này còn nằm trên một cồn cát hoang sơ của khúc sông Nhị Hà (sông Hồng). Sang đời Trần, trên cồn cát ấy có ngôi đền thờ các anh hùng liệt sĩ đã hi sinh trong cuộc chiến chống giặc Nguyên - Mông. Nhưng trải qua biến cố binh lửa, đền bị đổ nát. Mãi đến thời chúa Trịnh Giang, đã dựng cung Khánh Thụy trên đảo Ngọc làm nơi vui chơi, tiêu khiển. Năm 1786, cung Khánh Thụy bị Lê Chiêu Thống đốt. Những kẻ sĩ đất Bắc lại tìm về nền đất bị tàn phá, gây dựng lên những lâu đài văn hóa.

Sử sách chép lại: một tư nhân là Tín Trai đã dựng ngôi đền nhỏ trên nền cung Khánh Thụy, đền thờ Quan đế thánh nhân (tức Quan Công đời Hán), sau thêm ban thờ Trần Hưng Đạo (vị tổng chỉ huy trong cuộc chiến chống giặc Nguyên - Mông). Năm 1842, đền có thêm ban thờ Văn Xương đế quân, vị thần chủ trì văn học, sau còn thêm ban thờ tượng Lã Tể (Lã Đồng Tâm), vị tiên có tài tìm thuốc chữa bệnh. Năm 1843, đền mới chính thức có tên gọi là Ngọc Sơn.
 



Cổng ngoài của đền Ngọc Sơn - Ảnh: Tiến Thành


Về kiến trúc, đền Ngọc Sơn là một dãy nhà hình chữ Tam gồm tòa tiền bái, tòa chính điện và hậu cung. Tòa tiền bái thờ Quan Công, tòa chính điện thờ Văn Xương đế quân và tòa hậu cung thờ Trần Hưng Đạo. Ngoài ra trong đền còn thờ Phật A Di Đà. Điều này đã thể hiện rõ quan niệm tam giáo đồng nguyên của người Việt xưa.

Đúng 22 năm sau, phương đình Nguyễn Văn Siêu đã đứng ra vận động xây dựng và tu bổ đền Ngọc Sơn thành một biểu tượng văn hóa của kẻ sĩ Bắc Hà với một công trình liên hoàn gồm “đền Ngọc Sơn - cầu Thê Húc - tháp Bút - đài Nghiên”.
 



Từ cổng ngoài đi vào có hai bức tường hai bên, một bên là bảng rồng, một bên là bảng hổ, tượng trưng cho hai bảng cao quý nêu tên những người thi đỗ năm xưa - Ảnh: Tiến Thành


Nguyễn Văn Siêu, nhà tri thức lỗi lạc của đất Thăng Long xưa, đã “múa bút” viết nên những hoành phi câu đối tuyệt mỹ cho những lâu đài văn hóa đương thời. Này đây là tháp Bút với ba chữ “Tả Thiên Thanh” (Viết lên trời xanh) tỏ rõ khí phách của kẻ sĩ Bắc Hà. Rằng kiếp sĩ phu đâu phải chỉ gác bút nghiên đi ở ẩn, mà họ đang xông pha ngòi bút để chăm lo dân, trị nước, hòa nhập với vũ trụ, với những đổi thay tiến bộ của hoàn cầu.

Này đây là đài Nghiên với đôi câu đối viết lên ước nguyện đầy ắp về chốn văn chương trí tuệ của đời người:

"Nước hồ đầy bóng nghiên vượt đảo

Núi đá cao thế bút chống trời".

 

 

Cầu Thê Húc ngày và đêm - Ảnh: Tiến Thành


Ngày nay, tâm niệm của Nguyễn Văn Siêu về cây cầu Thê Húc “hội tụ ánh sáng đẹp của mặt trời” vẫn còn nguyên giá trị. Sử tích ghi lại cầu được xây dựng năm 1865, gồm 15 nhịp, 32 chân cột tròn xếp thành 16 đôi. Trên cầu lát ván gỗ và sơn màu đỏ sẫm, chữ màu vàng. Cầu Thê Húc dẫn đến cổng đền Ngọc Sơn, còn gọi là Đắc Nguyệt lâu (lầu được trăng) nằm ẩn núp dưới bóng cây đa cổ thụ.

Đắc Nguyệt lâu là một gác chuông hai tầng, kiến trúc tựa như Khuê Văn Các ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám. Lầu có đắp hình long mã và rùa thần đội đồ thư và gươm báu hai bên, kèm đôi câu đối tượng trưng cho tấm lòng thanh bạch của sĩ phu Bắc Hà: “Cầu gỗ như chiếc cầu vồng đưa lên hồ đảo. Lầu cao soi trăng sáng nằm giữa lòng hồ”.

 

Đắc Nguyệt lâu (lầu được trăng) - Ảnh: Tiến Thành


Phía Nam đền Ngọc Sơn là trấn Ba Đình (đình chắn sóng). Xét ngụ ý sâu sa, tên gọi ấy mang nghĩa là chắn những làn sóng văn hóa độc hại xô bồ. Bia đền Ngọc Sơn viết: “Đền thờ mới đã hoàn thành, phía trước là đình Trấn Ba ngụ ý là trụ cột đứng vững giữa làn sóng văn hóa”. Trấn Ba Đình hình vuông, được xây dựng theo lối kiến trúc hai tầng, có 8 cột chống đỡ, bốn cột ngoài bằng đá, bốn cột trong bằng gỗ. Cột trong đình còn có đôi câu đối ngụ ý vừa ca tụng vừa răn dạy người đời:
 

"Kiếm hữu dư linh quang nhược thủy

Văn tòng đại khối thọ như sơn".

Đền Ngọc Sơn - Ảnh: Tiến Thành

 


Nghĩa là:

"Gươm có khí thiêng sáng màu nước

Văn theo trời đất thọ như non".

Ngày lại ngày, nhịp sống phố phường Hà Nội lại quay tít mù cùng bánh xe thời gian. Bận rộn và mệt mỏi. Nhưng dòng người đổ về quần thể di tích “đền Ngọc Sơn - cầu Thê Húc - tháp Bút - đài Nghiên” vẫn chẳng có gì thay đổi. Đông đúc, nhộn nhịp như tụ hội.

Có người đến đây chỉ để vui chơi giải sầu, có người hòa mình vào không gian trầm mặc hương khói để tĩnh tâm, thư thái… Và tôi đến đây chỉ để thỏa mãn một điều là hiểu được tấc lòng thanh bạch, đầy khí phách của "kẻ sĩ Bắc Hà" xưa.

 

Trấn Ba Đình - Ảnh: Tiến Thành

 

DiaOcOnline.vn - Theo Tuổi Trẻ