UBND TP vừa có Quyết định số 137/2007/QĐ - UBND, ban hành quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trên địa bàn.
UBND TP vừa có Quyết định số 137/2007/QĐ - UBND, ban hành quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư trên địa bàn.
Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/1/2008, thay thế 3 quyết định của UBND TP đã ban hành gồm QĐ số 26/2006/QĐ - UB, QĐ số 80/2005/QĐ - UB và QĐ số 165/2005/QĐ - UB.
Mở rộng hình thức tái định cư
Theo QĐ trên, có 3 hình thức tái định cư đối với các trường hợp bị thu hồi đất: Tái định cư chủ yếu bằng nhà ở chung cư cao tầng đối với hộ gia đình, cá nhân bị thu hồi nhà ở, đất ở mà phải di chuyển chỗ ở tại khu vực đô thị. Tái định cư bằng đất ở đối với trường hợp bị thu hồi nhà ở, đất ở mà phải di chuyển chỗ ở tại khu vực nông thôn và bồi thường, hỗ trợ bằng tiền để hộ gia đình, cá nhân tự lo chỗ ở mới.
Việc bồi thường, hỗ trợ cho người bị thu hồi đất gồm: Bồi thường hoặc hỗ trợ đối với toàn bộ diện tích đất Nhà nước thu hồi; đối với tài sản hiện có gắn liền với đất và các chi phí đầu tư vào đất bị Nhà nước thu hồi; hỗ trợ di chuyển, hỗ trợ ổn định đời sống, hỗ trợ đào tạo chuyển đổi nghề và các hỗ trợ khác. Đồng thời cả hỗ trợ để ổn định sản xuất và đời sống tại khu tái định cư.
Trường hợp nào được bồi thường bằng đất ở?
Người bị Nhà nước thu hồi đất có một trong các điều kiện sau thì được bồi thường: Có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai. Có quyết định giao đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất ổn định, được UBND xã, phường, thị trấn (gọi chung là UBND cấp xã) xác nhận không có tranh chấp mà có một trong các loại giấy tờ sau: Những giấy tờ về quyền sử dụng đất đai trước ngày 15/10/1993 do cơ quan có thẩm quyền cấp trong quá trình thực hiện chính sách đất đai của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp hoặc có tên trong sổ đăng ký ruộng đất, sổ địa chính. Giấy tờ hợp pháp về thừa kế, tặng, cho quyền sử dụng đất hoặc tài sản gắn liền với đất; giấy tờ giao nhà tình nghĩa gắn liền với đất.
Giấy tờ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, mua bán nhà ở gắn liền với đất ở trước ngày 15/10/1993. Giấy tờ về thanh lý, hoá giá nhà ở, mua nhà ở gắn liền với đất ở theo quy định của pháp luật. Giấy tờ do cơ quan có thẩm quyền thuộc chế độ cũ cấp cho người sử dụng đất.
Trường hợp hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất có một trong các loại giấy tờ trên, mà trên giấy tờ không ghi tên người khác, kèm theo giấy tờ về việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất có chữ ký của các bên có liên quan, nhưng đến thời điểm có quyết định thu hồi đất chưa thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật, nay được UBND cấp xã xác nhận là đất không có tranh chấp.
Trường hợp hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ trên, nhưng đã được sử dụng ổn định từ trước ngày 15/10/1993, nay được UBND cấp xã xác nhận là đất đó không có tranh chấp và không thuộc một trong các trường hợp tại thời điểm bắt đầu sử dụng đất đã có một trong các hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật về đất đai (như vi phạm quy hoạch chi tiết xây dựng, mặt bằng xây dựng được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt; lấn, chiếm hành lang bảo vệ công trình công cộng đã được công bố mốc giới, cắm mốc...).
Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất được được pháp luật công nhận về quyền sử dụng đất mà trước thời điểm Luật Đất đai 1988 có hiệu lực, Nhà nước đã có quyết định quản lý trong quá trình thực hiện chính sách đất đai nhưng trong thực tế Nhà nước chưa quản lý mà hộ gia đình, cá nhân đó vẫn quản lý sử dụng.
Cộng đồng dân cư đang sử dụng đất có các công trình là đình, đền, chùa, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ được UBND cấp xã nơi có đất bị thu hồi xác nhận là đất sử dụng chung cho cộng đồng và không có tranh chấp...
Theo Hanoinet